Tạp ghi 1 số cách xem vận khác, và xem vận tháng
+, Tiểu vận thì xem trọng cung vị do vậy tiểu vận khi xem thì trọng ở cung nó đóng. Tiểu vận đến cung nào thì năm đó có liên quan mật thiết đến cung đó. và đặc biệt chú ý đến các sao được an theo Địa chi. ví dụ tiểu vận vào cung Tài thì năm đó có liên quan đến tiền bạc, nếu Cung Tài có Thiên không thủ thì năm đó dễ mất rất nhiều tiền hay làm ăn thất bại, tiểu hạn vào cung Tật mà có Kiếp sát (được an theo Tam hợp năm sinh) thì rất dễ có tai nạn, tật bệnh, hình thương.
+, Lưu thái tuế là chúa tể của một năm nên chỉ xem Cát Hung. khi xem Lưu thái tuế cần đặc biệt chú ý đến Tứ hoá đại vận, Lưu Kình Đà đại vận, Tứ hoá Can năm hạn và lưu kình đà năm hạn, có cậu "Thái tuế nhờ Kình Đà mà dẫn động lưu hành". Lưu thái tuế mang tính động, là vua của 1 năm, nắm quyền sinh sát, gặp Cát thì tất cát, gặp hung thì rất hung, nếu là Cát thì càng Cát, nhưng bình thường cung đó cát lợi, mà lưu thái tuế đến cung đó, có thêm lưu hóa lộc nữa thì là một năm rất hanh thông, ngược lại cung đó xấu mà có thêm hóa kỵ thì cực xấu. Lưu thái tuế ngoài phát động còn có tính chất phóng đại vận hạn tốt xấu.
+, lưu niên đại vận xem cát hung cụ thể của Đại vận, nên cần phối lưu niên đại vận và đại vận.
Ví dụ:
Trên lá số nguyên thủy thì lưu thái tuế vào cung phụ mẫu, nên sẽ có 2 thứ 1 ứng vào Phụ mẫu. 2 nếu cung đó cũng đồng thời là cung lưu phu thê (tính theo di cung, của lưu niên đại vận), thì cũng có thể ứng phu thê nữa, hoặc ứng cả 2. đồng thời cung lưu phu thê cũng xung cung lưu quan, rồi tam hợp với lưu Di, lưu Phúc. nên có thể ứng vào bản thân mình như mất nhiều tiền, công việc kém sút. rồi cung phụ mẫu cũng xung với cung Tật, thì có thể năm đó mình bị bệnh....luận số vận hạn là rất linh hoạt, không thể theo 1 cách được.
+, Sách Tử vi Đẩu số Toàn thư viết "đại vận phát từ Trường sinh đến Đế vượng, rồi lại phát từ Thai đến Trường sinh", cho nên Đại vận suy kém từ Suy đến Tuyệt. vòng trường sinh biểu diễn biến hóa của ngũ hành nạp âm Cung An mệnh, nên nó giống như vòng đời sinh lão bệnh tử của con người. cho nên Đại vận từ Sinh đến Vượng là phát, từ Suy đến Tuyệt là dễ phá bại.
+ Vòng trường sinh dùng để định mạnh yếu của Cách Cục, như Tử Phủ Vũ Tướng mà ở nơi Thai, Mộc dục thì kém hẳn ở Đế Vương hay Quan đới. đó là định vị mạnh yếu của Cách Cục. trong luận đoán đê dễ dàng chỉ cần nhìn vị trí Vòng Trường sinh cùng Cách cục và tứ hóa đại vận + kình đà lộc tồn là được.
+, Lưu thái tuế là chúa tể của một năm nên chỉ xem Cát Hung. khi xem Lưu thái tuế cần đặc biệt chú ý đến Tứ hoá đại vận, Lưu Kình Đà đại vận, Tứ hoá Can năm hạn và lưu kình đà năm hạn, có cậu "Thái tuế nhờ Kình Đà mà dẫn động lưu hành". Lưu thái tuế mang tính động, là vua của 1 năm, nắm quyền sinh sát, gặp Cát thì tất cát, gặp hung thì rất hung, nếu là Cát thì càng Cát, nhưng bình thường cung đó cát lợi, mà lưu thái tuế đến cung đó, có thêm lưu hóa lộc nữa thì là một năm rất hanh thông, ngược lại cung đó xấu mà có thêm hóa kỵ thì cực xấu. Lưu thái tuế ngoài phát động còn có tính chất phóng đại vận hạn tốt xấu.
+, lưu niên đại vận xem cát hung cụ thể của Đại vận, nên cần phối lưu niên đại vận và đại vận.
Ví dụ:
Trên lá số nguyên thủy thì lưu thái tuế vào cung phụ mẫu, nên sẽ có 2 thứ 1 ứng vào Phụ mẫu. 2 nếu cung đó cũng đồng thời là cung lưu phu thê (tính theo di cung, của lưu niên đại vận), thì cũng có thể ứng phu thê nữa, hoặc ứng cả 2. đồng thời cung lưu phu thê cũng xung cung lưu quan, rồi tam hợp với lưu Di, lưu Phúc. nên có thể ứng vào bản thân mình như mất nhiều tiền, công việc kém sút. rồi cung phụ mẫu cũng xung với cung Tật, thì có thể năm đó mình bị bệnh....luận số vận hạn là rất linh hoạt, không thể theo 1 cách được.
+, Sách Tử vi Đẩu số Toàn thư viết "đại vận phát từ Trường sinh đến Đế vượng, rồi lại phát từ Thai đến Trường sinh", cho nên Đại vận suy kém từ Suy đến Tuyệt. vòng trường sinh biểu diễn biến hóa của ngũ hành nạp âm Cung An mệnh, nên nó giống như vòng đời sinh lão bệnh tử của con người. cho nên Đại vận từ Sinh đến Vượng là phát, từ Suy đến Tuyệt là dễ phá bại.
+ Vòng trường sinh dùng để định mạnh yếu của Cách Cục, như Tử Phủ Vũ Tướng mà ở nơi Thai, Mộc dục thì kém hẳn ở Đế Vương hay Quan đới. đó là định vị mạnh yếu của Cách Cục. trong luận đoán đê dễ dàng chỉ cần nhìn vị trí Vòng Trường sinh cùng Cách cục và tứ hóa đại vận + kình đà lộc tồn là được.
+, Đại vận chính là "lưu mệnh" hay dòng thời gian của cuộc đời trôi về đó. Cung Mệnh ảnh hưởng trực tiếp xuyên suốt cuộc đời, cho nên những gì có ở Cung Mệnh sẽ được biểu hiện ở vận hạn. ví dụ một người có số đi tù, thì chỉ đi tù trong khoảng nào gian nào đó, ta nhìn Cung Mệnh có cách đi tù, đến Đại Vận có cách đi tù thì ứng nghiệm sẽ đi tù ở vận này, Đại vận có cách đi tù đến Tiểu vận cũng có cách đi tù thì nhất định sẽ đi tù năm đó. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của việc xem Vận hạn. một người có số Thương tật do tai nạn thì cung mệnh và Cung Tật có cách hình thương, đến Đại vận cũng có cách hình thường thì ứng vào đại vận này, xem xét Tiểu vận có cách hình thương luôn thì nhất định tiểu vận sẽ ứng.
+ Đại vận chính là Lưu cung Mệnh, cho nên xem đại vận cũng giống như xem cung mệnh. Cần phải xem Cách Cục đại vận giống như cung Mệnh vậy. Đại vận thì có Can đại vận, lưu Thái Tuế thì có Can năm, như vậy về cơ bản 12 năm lặp lại như Can đại vận và Can Năm hạn là khác nhau, từ đó tính chất Cát Hung của Thái Tuế cũng thay đổi, Tứ Hóa Phái đã nói rất hay về vận hạn cát hung bằng Tứ hóa. ngoài ra có thể theo Trung Châu Tam Hợp Phái luận đoán.
-------------------------------
Có 1 số quan điểm về cách chuyển vận của lưu niên tiểu vận tính theo ngày tháng năm sinh
Tính năm tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận - đây là chìa khoá quan trọng trong Tửvi Trong sách vở hiện nay, chưa sách nào chỉ ra cách tính tiểu vận đúng, tất cả đều tính theo cách thông thường, ví dụ, người sinh 15/12/Tân dậu (1981) – nam giới, theo cách tính từ truớc đến nay đều cho rằng năm Ât dậu (2005) tiểu vận sẽ nằm ở cung Mùi, nhưng như vậy là sai lầm. Chỉ khi thực sự thành hình thì con người mới hội tụ đủ ngũ hành và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội, nên đến ngày 15/12/ Ất dậu (2005) thì mới đủ 25 tuổi và khi đó vận mới nhập vào cung Mùi. Từ trước ngày 15/12/ Ât dậu vẫn thuộc Tiểu vận ở cung Ngọ. Tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận. Ví dụ: người sinh tháng 6 âm, nửa đầu tiểu hạn năm nay ở tỵ, có lộc tồn chiếu thì phải tốt. Qua tháng 6 vận chạy qua ngọ, bị lưu kình chiếu và các sao ở ngọ thì phải khác.
(trùng kiến thức được chia sẻ bởi lethanhnhi: 1,vấn đề lưu niên và tiểu hạn;sang năm mới là dùng can chi năm an lưu niên thái tuế và các sao lưu, nhưng đúng sinh nhật thì mới thay cung tiểu hạn. 2, mọi người hay nhắc đến lưu tứ hóa nhưng ít thấy ai nhắc tới lưu lộc tồn và kình đà của đại hạn, mà Liễu Vô cực kì chú trọng. 3, Dùng tiểu hạn hay lưu niên 1 trong 2 là đủ, dùng lưu niên thì đơn giản chính xác, dùng tiểu hạn thì trọng sao mà bàn cụ thể. 4. XEM VẬN THÁNG, SAO ĐẨU QUÂN CÒN GỌI LÀ NGUYỆT TƯỚNG,TỨC LÀ LÀM CHỦ THÁNG. việc tìm lưu Đẩu Quân không chỉ để tìm tháng giêng xem vận tháng, mà cung lưu Đẩu Quân cũng được khá nhiều tác giả chú trọng khi xem hạn một năm. Lưu Đẩu Quân an tại cung nào, tất sự kiện cung đó động, có sự kiện nổi bật; dùng nguyệt hạn và dùng luôn 9 sao phi tinh (sao lưu) của năm, nếu nó chạm vào tháng nào thì tháng đó dính. Ngoài ra xem các sao trong tháng đó, đây là kinh nghiệm tính vận tháng = trùng kiến thức của anh Long)
NẾU TRỌNG TỨ HÓA DỤNG THẦN THÌ KHÔNG CẦN 108 SAO, NHÌN THẾ ĐỨNG MÀ ĐỌC RA ĐƯỢC. CÒN DÙNG SAO THÌ BẢN CHẤT SAO ĐÃ NÓI NÊN TẤT CẢ RỒI. ĐÂY LÀ 2 CÁCH GIẢI 1 BÀI TOÁN, KHÔNG VIỆC GÌ PHẢI LÀM CẢ 2, VÀ ĐÔI KHI CHÍNH CÁCH DÙNG CỔ ĐIỂN NHƯ CÁC CỤ NGÀY XƯA LẠI HAY.
------------------------------
LUU THAI TUE LA THIEN THOI. LUU TIEU HAN LA DIEN BIEN (ĐỊA LỢI + NHÂN vì thuận nghịch theo nam nữ); KET QUA LA LUU NIEN DAI HAN (Nhân, vì lưu mệnh về đó)
-------------------------------
Có 1 số quan điểm về cách chuyển vận của lưu niên tiểu vận tính theo ngày tháng năm sinh
Tính năm tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận - đây là chìa khoá quan trọng trong Tửvi Trong sách vở hiện nay, chưa sách nào chỉ ra cách tính tiểu vận đúng, tất cả đều tính theo cách thông thường, ví dụ, người sinh 15/12/Tân dậu (1981) – nam giới, theo cách tính từ truớc đến nay đều cho rằng năm Ât dậu (2005) tiểu vận sẽ nằm ở cung Mùi, nhưng như vậy là sai lầm. Chỉ khi thực sự thành hình thì con người mới hội tụ đủ ngũ hành và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội, nên đến ngày 15/12/ Ất dậu (2005) thì mới đủ 25 tuổi và khi đó vận mới nhập vào cung Mùi. Từ trước ngày 15/12/ Ât dậu vẫn thuộc Tiểu vận ở cung Ngọ. Tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận. Ví dụ: người sinh tháng 6 âm, nửa đầu tiểu hạn năm nay ở tỵ, có lộc tồn chiếu thì phải tốt. Qua tháng 6 vận chạy qua ngọ, bị lưu kình chiếu và các sao ở ngọ thì phải khác.
(trùng kiến thức được chia sẻ bởi lethanhnhi: 1,vấn đề lưu niên và tiểu hạn;sang năm mới là dùng can chi năm an lưu niên thái tuế và các sao lưu, nhưng đúng sinh nhật thì mới thay cung tiểu hạn. 2, mọi người hay nhắc đến lưu tứ hóa nhưng ít thấy ai nhắc tới lưu lộc tồn và kình đà của đại hạn, mà Liễu Vô cực kì chú trọng. 3, Dùng tiểu hạn hay lưu niên 1 trong 2 là đủ, dùng lưu niên thì đơn giản chính xác, dùng tiểu hạn thì trọng sao mà bàn cụ thể. 4. XEM VẬN THÁNG, SAO ĐẨU QUÂN CÒN GỌI LÀ NGUYỆT TƯỚNG,TỨC LÀ LÀM CHỦ THÁNG. việc tìm lưu Đẩu Quân không chỉ để tìm tháng giêng xem vận tháng, mà cung lưu Đẩu Quân cũng được khá nhiều tác giả chú trọng khi xem hạn một năm. Lưu Đẩu Quân an tại cung nào, tất sự kiện cung đó động, có sự kiện nổi bật; dùng nguyệt hạn và dùng luôn 9 sao phi tinh (sao lưu) của năm, nếu nó chạm vào tháng nào thì tháng đó dính. Ngoài ra xem các sao trong tháng đó, đây là kinh nghiệm tính vận tháng = trùng kiến thức của anh Long)
NẾU TRỌNG TỨ HÓA DỤNG THẦN THÌ KHÔNG CẦN 108 SAO, NHÌN THẾ ĐỨNG MÀ ĐỌC RA ĐƯỢC. CÒN DÙNG SAO THÌ BẢN CHẤT SAO ĐÃ NÓI NÊN TẤT CẢ RỒI. ĐÂY LÀ 2 CÁCH GIẢI 1 BÀI TOÁN, KHÔNG VIỆC GÌ PHẢI LÀM CẢ 2, VÀ ĐÔI KHI CHÍNH CÁCH DÙNG CỔ ĐIỂN NHƯ CÁC CỤ NGÀY XƯA LẠI HAY.
------------------------------
LUU THAI TUE LA THIEN THOI. LUU TIEU HAN LA DIEN BIEN (ĐỊA LỢI + NHÂN vì thuận nghịch theo nam nữ); KET QUA LA LUU NIEN DAI HAN (Nhân, vì lưu mệnh về đó)
LNĐV, LNTV, LTT là tam tài thiện địa nhân
---------------------------
Tinh đồ tùy thời mà mạnh yếu khác nhau. Có khi Tử vi là cực phẩm, có lúc Cự Môn mới huy hoàng. Được thời Thái Dương tỏa hào quang, gặp vận Thất Sát thành tượng đài bất diệt. Nhưng chung quy lại, điểm hơn thua được mất của lá số chính là nằm ở Khát vọng. Tôi tạm gọi đó là điểm G.
Khát vọng của Đồ hình chính là ở các vị trí mạnh nhất của tinh bàn.
Khát vọng của Tứ hóa mạnh nhất ở thời Lộc Quyền hội.
Khát vọng của Tràng sinh chính là ở thời Tràng Sinh
Khát vọng của Thái Tuế nằm nơi tam hợp Thái Tuế.
Khát vọng của tình yêu nằm nơi Đào Hồng Hỉ
Khát vọng của siêu thoát nằm nơi không vong.
Khát vọng của những Khát vọng nằm ở chính Sát tinh.
Khát vọng của ám bại chính là: Điểm dối lừa.
---------------------------
Tinh đồ tùy thời mà mạnh yếu khác nhau. Có khi Tử vi là cực phẩm, có lúc Cự Môn mới huy hoàng. Được thời Thái Dương tỏa hào quang, gặp vận Thất Sát thành tượng đài bất diệt. Nhưng chung quy lại, điểm hơn thua được mất của lá số chính là nằm ở Khát vọng. Tôi tạm gọi đó là điểm G.
Khát vọng của Đồ hình chính là ở các vị trí mạnh nhất của tinh bàn.
Khát vọng của Tứ hóa mạnh nhất ở thời Lộc Quyền hội.
Khát vọng của Tràng sinh chính là ở thời Tràng Sinh
Khát vọng của Thái Tuế nằm nơi tam hợp Thái Tuế.
Khát vọng của tình yêu nằm nơi Đào Hồng Hỉ
Khát vọng của siêu thoát nằm nơi không vong.
Khát vọng của những Khát vọng nằm ở chính Sát tinh.
Khát vọng của ám bại chính là: Điểm dối lừa.
Nhận xét
Đăng nhận xét