[Books] - Tử vi đẩu số phân tích mệnh vận (phi tinh tứ hóa phái - QNB dịch; nguồn: TVLS)


Tác giả: Từ Tăng Sinh

Dịch giả: Thiên Hỏa Đồng Nhân hội

Hiệu đính: Quách Ngọc Bội, Linh Chi.

Sách này không dành cho người đang luận cơ bản cát hung 12 cung 
-------------------------------------------------------------------------------------

CHƯƠNG 1: Làm sao đoán được sự kiện cùng mối quan hệ nhân quả? nếu A dẫn động sẽ phát sinh sự kiện B?

Thí dụ 1: Một ông chủ hiệu chụp ảnh, lúc trước khi gả con gái đã đến hỏi về vận trình tương lai sau khi kết hôn có hạnh phúc không. Khi chờ lão sư lập mệnh bàn của con gái của ông ấy xong, chỉ nghĩ là lão sư sẽ giảng về việc sau hôn nhân sẽ như thế này thế kia, ai dè đâu lão sư nói câu đầu tiên chính là "Con gái một khi đã gả đi rồi, thì bà mẹ chồng trong vòng 3 tháng sẽ qua đời". "Tại sao có thể như thế?", con gái đi lấy chồng và sự sống chết của mẹ chồng có sự liên quan như thế nào đến nhau? Bởi theo sự tình thông thường mà suy luận, thì nghĩ kiểu gì cũng không thể lôi kéo 2 sự việc vào cùng với nhau được.

Thí dụ 2: Sau Tết âm lịch có một người bạn, bởi vì công chuyện kinh doanh của xưởng sản xuất máy dập viên không được thuận lợi, mới tìm đến lão sư để xin chỉ giáo. Lão sư vừa nhìn mệnh bàn, đã nói: "Bạn cần phải chuyển nhà, chỉ có điều phải mất đến mấy tháng mới chuyển xong" và "Một khi bạn đã chuyển nhà thì sẽ có tiền".

Nhưng ở hai ví dụ kể trên, từ trong đó có câu đoán "Một khi bạn đã chuyển nhà thì sẽ có tiền" bao quát cả cung Điền Trạch và cung Tài Bạch của Tử Vi Đẩu Số, mà hình như là ở trong mối quan hệ 3 giai đoạn của [Mệnh gốc, Đại Hạn, Lưu Niên Tiểu Hạn], cũng không chỉ giới hạn mối quan hệ một chiều dọc cho các cung vị [Mệnh gốc, Đại Hạn, Lưu niên], mà nó còn bao gồm mối quan hệ chiều ngang giữa các cung khác nhau. Bởi vì trong quá trình suy tính vận đồ, cung A của Mệnh gốc sẽ thành cung B của Đại Hạn, không biết có đúng là do loại quan hệ chiều ngang này hay không, mà ở trong thuật ngữ luận đoán A kết hợp với B đạt được ý tượng kết cấu cặp cung vị chuyển hóa thành lời luận đoán.




Lĩnh ngộ được quy tắc, để giúp bạn suy luận sau khi làm cho A dẫn động sẽ phát sinh sự kiện B. Tử Vi Đẩu Số có thể phân tích ra được 2 cung vị khác nhau sau khi kích động qua lại tạo ra sự kiện cùng mối quan hệ nhân quả giữa 2 cung ấy.

CHƯƠNG 2&3: Không gian, thời gian, sự kiện - Tứ hóa dụng thần - Mượn cung (Tá cung)

Đẩu Số dựa vào Thời Gian mà lập Mệnh, đo Địa Chi để lan tỏa trong 12 cung mà lập Cực, ứng Thời gian của các sao. Đẩu Số chú trọng vào việc tạo thành tượng, lấy Thiên Can để dẫn Tứ Hóa phi cung hóa diệu, gieo tượng sắp đặt trong Không Gian.

Nòng cốt của Tử Vi Đẩu Số là cấu thành bởi 3 yếu tố "Thời gian, Không gian, Sự kiện" :

Địa Chi - Thời gian
Thiên Can - Không gian
Các tinh đẩu - Gieo tượng (sự kiện)

"Tứ Hóa chính là Dụng Thần của Đẩu Số"

Không gian được chia thành 12 cung như Cung Mệnh, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Tài Bạch, Tật Ách, Thiên Di, Nô Bộc, Quan Lộc, Điền Trạch, Phúc Đức, Phụ Mẫu. Dùng chữ "Cung" là thay cho cách gọi "Không gian", cho nên mới gọi là 12 cung nhân sự

Tuy là thế nhưng có rất nhiều hoàn cảnh quanh ta khó có thể sử dụng 12 cung để biểu hiện, như: nơi đi làm, quản lí,... Những cái đó cũng sẽ ảnh hưởng tới số phận con người, vậy thì nó sẽ được biểu hiện như thế nào trong mệnh bàn? Sẽ phải thông qua quan niệm "Mượn cung" để diễn sinh ra cái Không gian đó, ví dụ như: cung Tật Ách chính là [cung Điền Trạch của cung Quan Lộc], đó cũng chính là cung vị của Nhà xưởng, Cửa hàng, Cơ quan doanh nghiệp, mà thông qua đó có thể quan sát được loại công việc ở chỗ làm, có người có thể đoán được là vào làm việc ở công ty nọ năm nào và đến nào thì chuyển đi, những cái đó đều căn cứ vào cung Tật Ách.

Những ai học Đẩu Số đều biết qua khái niệm "Lập Thái Cực" (nghĩa là: cung nào cũng có thể lập thành Thái Cực). Ý của nó là, muốn xem số phận của anh em thì lấy cung Huynh Đệ làm cung Mệnh của họ, khi đó thì cung Phu Thê sẽ biến thành [cung Huynh Đệ của cung Huynh Đệ], cung Mệnh của lá số Gốc sẽ biến thành [cung Phụ Mẫu của cung Huynh Đệ], các cung vị khác đều biến đổi thành các loại cung vị tương ứng của cung Huynh Đệ, đây chính là cái ý tứ của câu “Cung cung khả lập Thái Cực”. Trong lúc luận đoán số mệnh thì thể dùng cách “Tá cung” (phép “Mượn cung”) để luận đoán những hình tượng sự tình của Người – Việc – Vật mà không nằm trong 12 cung nhân sự.

Một, [cung Mệnh]: đại biểu cho các tính cách cá nhân, giá trị quan, tư tưởng, tướng mạo, bản thân đương số cao hay thấp, trọng điểm là ở chỗ [cái Tôi về mặt tinh thần].

Hai, [cung Huynh Đệ]: đại biểu cho ô số phận của anh em, tình cảm của anh em nông sâu, có được anh em trợ giúp hay không. Đối với quan hệ giao tiếp trong xã hội sẽ phát triển thành các tình huống khác nhau. Bản thân có năng lực lãnh đạo hay không cũng được thể hiện ở cung này. Vừa có thể là mô tả cha mẹ của cung Phu thê, đó là vị trí của mẹ và cũng vừa là Phu thê của cung Phụ mẫu. Do đó nó có cũng là vị trí của cha mẹ chồng (nữ mệnh), hoặc đại biểu cho cha mẹ vợ.

Ba, [cung Phu Thê]: cho thấy thái độ về chuyện tình cảm của một cá nhân, là người cởi mở hay là bảo thủ, là người lém lỉnh hay là chất phác,… Trước khi kết hôn thì dùng cung này để dự đoán về quan hệ nam nữ, loại đối tượng mà mình thích như thế nào. Còn sau khi kết hôn thì xem về tình cảm sinh hoạt vợ chồng tốt xấu ra sao, có hiện tượng tiềm ẩn xảy ra chuyện ngoại tình hay không, cần phải lấy cái nhìn về ý nghĩa rộng là [cung tình cảm], không nên chỉ nhìn vào cái nghĩa hẹp là cung vợ chồng. Nếu lấy cung Tài Bạch làm cung gốc, thì cung Phu Thê sẽ trở thành cung Phúc Đức của cung Tài Bạch, chính là áp dụng vị trí hưởng thụ tiền bạc kiếm được, không có tiền thì quan hệ vợ chồng tự nhiên sẽ bị ảnh hưởng.

Bốn, [cung Tử Tức]: đại biểu cho ô số phận của con cái, tình cảm ruột thịt cùng với tình duyên khác giới của bản thân. Lúc xem con cái, nó đại diện cho con trai chứ không phải con gái, bởi vì việc sinh con và giới tính có liên quan với nhau. Vì thế, ta có thể xem được năng lực sinh dục của một cá nhân hoặc giới tính hành vi sự vật có liên quan. Cũng là đại biểu cho những cấp dưới mà mình quản lí hoặc là các công ty con có quy mô nhỏ trực thuộc. Nó cũng là cung Quan Lộc của cung Nô Bộc, cho nên nó đại biểu sự nghiệp phía đối tác.

Năm, [cung Tài Bạch]: đại biểu cho tiền mặt lưu động, quan sát một cá nhân cùng năng lực tài vụ có liên quan, làm ngành nghề gì có thể kiếm tiền, gốc gác tiền tài đến từ đâu, năng lực quản lí tiền bạc cao hay thấp, thái độ đối với tiền bạc,… Khi không có tiền, quan hệ vợ chồng cũng sẽ sinh ra thay đổi, cho nên cung vị này quan sát được vợ chồng đối đãi với nhau tốt xấu thế nào sau khi kết hôn.

Sáu, [cung Tật Ách]: đại biểu thể chất của cá nhân, tình trạng sức khỏe, bộ phận tật bệnh, tướng mạo bên ngoài vừa là vị trí [Số kiếp] đại biểu tai nạn phát ra từ cơ thể. Ví dụ như có khối u, xuất huyết dạ dày, tật bệnh phát sinh từ trong cơ thể, biểu thị [cái Tôi vè mặt thể xác]. Vừa là cung Quan Lộc của cung Điền Trạch, cho nên đại biểu cửa hàng, nơi đi làm hoặc nhà xưởng.

Bảy, [cung Thiên Di]: đại biểu tất cả các việc [liên quan tới bên ngoài] như năng lực giao tiếp, gặp gỡ khi ra ngoài, có thể phát triển năng lực đặc biệt của bản thân hay không, quan hệ đối ngoại, vận trình du lịch cùng tình hình phát triển ngoài xã hội. Nó cũng đại biểu vẻ bên ngoài của cá nhân hoặc cách nhìn nhận nói năng, là [cái Tôi biểu hiện ở bên ngoài] của một cá nhân.

Tám, [cung Giao Hữu / Nô Bộc]: đại biểu bạn bè, cộng sự, các tình huống trong đối xử với cấp dưới. Ngày xưa gọi là [cung Nô Bộc] tức cung vị này sẽ biểu thị cho việc có được người trợ thủ đắc lực hay không, còn thời hiện đại bây giờ có thể biểu thị một loại hình cá nhân chọn lựa người giao tiếp. Cũng có thể dùng cung này để xem năng lực lãnh đạo của một cá nhân.

Chín, [cung Quan Lộc]: sự nghiệp tức là vận trình đường lối, có thể xem được đặc tính con người thích hợp với công việc nào, nó cũng đại biểu cho tình trạng của vận trình đường lối. Như học sinh thì là vận trình đi học, sau này ra xã hội thì đại biểu cho vận trình của sự nghiệp, làm quan thì là vận trình thăng tiến chức vị, nên còn gọi là [cung quan lộc] chứ không hẳn chỉ là sự nghiệp mà thôi.

Mười, [cung Điền Trạch]: đại biểu bất động sản, hoàn cảnh nơi ở phù hợp với môi trường hay tọa hướng thế nào, năng lực cao thấp khi lựa chọn nhà cửa, năng lực xử lí chuyện gia đình. Cũng đại biểu cho [Số kiếp] ngoài ý muốn, như đột nhiên bị thương tổn, cho nên còn gọi là [Số kiếp tự]. Trong phong thủy học có nói phòng ốc không tốt cũng sẽ ảnh hưởng tới con cái, cho nên nó cũng đại biểu cho [cách nhìn của người ta về biểu hiện bên ngoài của con cái].

Mười một, [cung Phúc Đức]: Vị trí xem xét một cá nhân có khả năng được hưởng thụ hay không? Hoặc có hứng thú gì? Cho nên còn gọi là [cung Sở thích], cũng có thể dùng để xem vận đồ lúc về già. Cung Phúc Đức tốt, dù không có gia tài bạc triệu nhưng cũng đầy đủ để hưởng phúc tuổi già. Cung Phúc Đức xấu, dù nắm giữ gia tài ngàn tỉ nhưng suốt ngày sẽ nóng vội vì muốn kiến tiền nên lòng không bao giờ thành thản. Ở nữ mệnh thì cung Phúc Đức là cung vị trọng yếu để xem tốt xấu trong hôn nhân, không được quên điểm này.

Mười hai, [cung Phụ Mẫu]: đại biểu ô số mệnh của cha mẹ, cùng với xem duyên phận với cha mẹ sâu hay cạn. Đối với người đi làm thì đại biểu duyên phận đối với cấp trên, còn kẻ đi học thì là đại biểu duyên đối với thầy. Cũng đại biểu cho khả năng quản chế người khác như quan tòa, cảnh sát, cơ quan chính phủ. Bởi vì thân thể do cha mẹ sinh ra nên sẽ mang di truyền từ cha mẹ, nên cũng thể dựa vào đó xem tướng nên còn gọi là [cung Tướng Mạo].

Trong mệnh bàn thì 12 Địa Chi đại biểu cho Thời gian, mà Đại Hạn là một vận 10 năm, phối hợp với 12 Địa Chi thì sẽ dư ra 2 ô, cũng chính là thời gian năm Dần nào đó của Đại Hạn gốc cho đến năm Dần kế tiếp, sau đó chuyển biến thành Đại Hạn khác. Mặc dù Lưu Niên (Lưu Niên Thái Tuế) đều ở tại cung Dần, nhưng mà Đại Hạn khác nhau nên vận Lưu Niên cũng theo đó mà khác nhau, do đó mà sẽ không có sự tái diễn. Chúng ta sử dụng quan điểm Toán học để xét, phép Vi Phân (chia nhỏ) của Mệnh chính là Đại Hạn, rồi Đại Hạn lại chia nhỏ chính là Lưu Niên…; còn Lưu Nhật lũy tích chính là thành Lưu Nguyệt, và Lưu Nguyệt lũy tích chính là thành Lưu Niên,… đến đây thì chúng ta đã hiểu rõ được Mệnh là Tích Phân của Vận, mà Vận là Vi Phân của Mệnh.

Đem vận thế lấy thời gian chia tách thành những quãng thời gian khác biệt sẽ thu được những vấn đề dưới đây:

Một, sự kiện phát sinh cùng với cung vị của nó là có sự liên quan, như tiền tài bị mất chính là mối quan hệ giữa tiền của ta với bạn bè; vì đất đai mà bị giết chính là quan hệ giữa điền trạch của ta với bạn bè, những cái này là quan hệ ngang hàng thì phải làm thế nào để xâu chuỗi?

Hai, mối quan hệ chiều dọc của cùng một hiện tượng nhân sự mà ở những quãng thời gian khác nhau thì biểu hiện như thế nào? Thí dụ như mối quan hệ giữa tiền bạc của Đại Hạn gốc và tiền bạc của năm nay.

Ba, năm ngoái bạn có thiếu nợ ta 1 khoản tiền, sang năm có thể hoàn trả hay không? Trong vấn đề này, liên quan tới những quãng thời gian nhau, mối quan hệ dọc ngang của hiện tượng nhân sự khác nhau. Cần dùng phương thức nào để bắt đầu xâu chuỗi những mối quan hệ dọc ngang kiểu này?

Làm cách nào có thể tìm ra được một cái có khả năng kết nối Thời gian, cái kỹ thuật bản lề hỗ động của chúng nói lên mối quan hệ cung vị nhân sự. Và kĩ thuật đó được ra đời, chính là Tứ Hóa, các ngôi sao Hóa này từ một Can cung nào đó mà hóa, nhập vào trong một cung khác, ở mỗi lần Phi Hóa và một lần nhập vào trong cung vị và liền tạo ra một mối quan hệ liên quan nào đó, cái mối quan hệ liên quan ấy có mức độ nông sâu mạnh yếu và cả cát hung, vẫn đều là sử dụng 4 ngôi Hóa tinh khác nhau mà bày tỏ sự mạnh yếu của mối quan hệ trong đó.

Tứ Hóa trong ứng dụng suy đoán vận thế giống như công năng của phép Vi Phân, thông qua lần Vi Phân thứ nhất ta có thể tìm được điểm uốn của đồ thị vận mệnh, đến lần Vi Phân thứ hai sẽ tìm được cực trị trên đồ thị đó, mà Hóa Lộc chính là giá trị cực đại, Hóa Kị là giá trị cực tiểu, các điểm cực trị đó lại chính là thời điểm phát sinh sự kiện.

Có một số người chỉ đơn thuần lấy các sao tọa ở trong cung để luận mệnh, những người này đến ngay cả phương pháp luận ở ngưỡng cửa cơ bản của Tử Vi Đẩu Số cũng chưa bước vào nổi, thì sao có thể hiểu được sự huyền bí trong Đẩu Số. Tinh tú chỉ là danh hiệu mà thôi, tùy góc độ hỏi về mệnh sẽ có ý nghĩa khác nhau. Như sao Thiên Cơ khi hỏi về vận Tài Bạch với vận Điền Trạch thì ý nghĩa nó hoàn toàn không giống nhau. Chúng ta lại biết Thiên Can Tứ Hóa phụ trách về sự hiển lộ của sự kiện, các tinh tú tới lúc bị “Hóa” sẽ phát sinh năng lực cát hung, còn lúc chưa bị Hóa cũng chỉ là vật chất ở trạng thái tĩnh mà thôi. Sao còn có tính chất đặc biệt là “Tinh tính”, đến lúc bị hóa thì tính chất sao sẽ bị thay đổi, cho nên thấy được rằng đến lúc mà các sao bị hóa thì tính chất sẽ khác với lúc ban đầu rất nhiều, cái đạo lý này không thể không biết.

Ví dụ như sao Thiên Cơ vốn là trục chuyển động cơ giới như Xe hơi (khi ở Thiên Di), đệm lò xo (khi ở Điền Trạch), chân tay (khi ở Tật Ách),… những cái này được gọi là tinh tính (tính chất của sao) của nó. Giả dụ một khi xảy ra Hóa Kị thì sẽ hiển hiện ra hung tượng, biến thành: Tai nạn xe cộ (ở Thiên Di), máy móc trục trặc (khi ở Điền Trạch), chân tay bị thương (khi ở Tật Ách). Trái lại, nếu mà Hóa Lộc thì biến thành: mua xe hơi (ở Thiên Di), mua máy móc (ở Điền Trạch), chân tay phục hồi như cũ (ở Tật Ách). Cho nên tính chất của sao cần phải thông qua ảnh hưởng biến hóa từng tầng của Tứ Hóa thì mới có thể phát sinh được sự biến đổi chất mà dẫn tới phát sinh ra sự kiện.

Công dụng của Thiên Can Tứ Hóa ở những điểm sau:


1. Quán xuyến Thời gian, Không gian, liên kết mối quan hệ tương hỗ của sự kiện.
2. Làm cho sự kiện lộ rõ đúng thời điểm (biểu hiện thông qua Thời gian xuất hiện ra sự kiện)
3. Biểu thị mối quan hệ nhân quả để hình thành sự kiện.


CHƯƠNG 4: GIẢI THÍCH NHẬN THỨC CƠ BẢN CỦA BÍ MẬT MỆNH BÀN

1, Nhất định phải xem toàn bộ lá số, không thể xem 1 cung để mà đưa ra phán đoán

Lấy ví dụ sau:




Cung Phu Thê gốc có sao Thiên Cơ hóa Lộc cùng với các cát tinh Văn Xương, Hữu Bật. Nhưng Thiên Cơ ở cung vị Mậu Tí, can Mậu khiến cho Thiên Cơ tự hóa Kị, thì bản mệnh của chồng sẽ khó giữ. Khi Đại Hạn đi vào khoảng thời gian 25 – 34 tuổi ở cung Canh Thìn. Cung Phu Thê của Đại Hạn trùng điệp với cung Mệnh gốc (ở Mậu Dần), thiên can Mậu lại khiến cho Thiên Cơ hóa Kị nhập vào cung Phu Thê gốc, làm Thiên Cơ ban đầu bị khử khiến cho duyên với chồng trôi qua gấp hơn, cho nên vì tai nạn trên thuyền mà mất chồng. Cung Phu Thê gốc gieo tượng, trải qua sự thúc giục biến đổi của cung Phu Thê của Đại Hạn trùng trùng điệp tăng mạnh hung lực của Hóa Kị để đến Lưu Niên thành sự việc. Bởi vì Hóa Kị của cung Phu Thê gốc sẽ theo sự lưu chuyển của Đại Hạn mà tiếp tục kéo dài, cũng bởi vì nó chính là chỗ Hóa của Mệnh gốc nên suốt đời đều có hiệu lực. Nếu như là chỗ Hóa của Đại Hạn thì chỉ có tác dụng trong Đại Hạn, khi qua 10 năm Đại Hạn ấy thì hiệu lực sẽ biến mất.

3, Sự việc có mức độ nghiêm trọng không giống nhau.

Dấu hiệu biểu hiện của mức độ nghiêm trọng phải tham khảo tổ hợp của các sao tọa trong cung:
- Chính Tinh
- Sát Tinh
- Hóa Tinh

Hóa Tinh biểu thị mức độ nghiêm trọng, Sát Tinh cũng có thể tăng mạnh mức độ nghiêm trọng.

Ví dụ: Cự Môn bị sao Hóa Kị xung động thì dễ bị trộm cắp, nhưng nếu như Cự Môn, Tả Phụ, Kình Dương đồng cung thì sẽ biến thành tình huống “Thâu bất thành dụng thường” (nghĩa là: Trộm không được thì Cướp), thậm chí còn biến thành động dao giết người, cái này là đều do mang Sát Tinh: xui xẻo của Kình Dương.

Trong ví dụ trên, Thiên Cơ năm sinh hóa Lộc gặp phải Tự hóa Kị tạo thành Song Kị, hơn nữa cung Phu Thê của Đại Hạn hóa Kị tiến vào, đồng thời cũng dẫn theo các sao Văn Khúc, Tả Phụ, Đà La vào kết hợp cùng với Thiên Cơ ban đầu, có Hữu Bật, Văn Xương mà từ đó hiện ra hình ảnh và mức độ nghiêm trọng của sự kiện.



4, Sự phát sinh của sự việc, có một số yêu cầu trải qua sự Ấp Ủ chậm rãi mới thành việc, có một số Đột Nhiên mà thành sự kiện.

Bởi vì, sự phát sinh của mỗi sự việc đều khác nhau, không phải “Việc nào cũng đều cần trải qua quá trình phát triển ấp ủ”, mà các sự khác biệt này đều ở trạng thái tổ hợp của các sao. Nếu như thuộc tổ hợp các sao cực hung thì sẽ dễ phát sinh sự việc bất ngờ ngoài ý muốn. Các tổ hợp sao hung là:

Liêm Trinh, Thất Sát, chôn xác trên đường.
Tham Cự Phá Hao, vùi thây dưới nước.

Hai cách giải thích rõ về thuật ngữ “Tại Số” và “Hóa Khí” của các sao

Nắm chắc được tính chất các sao là nền móng nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số, và những thuyết minh ở mức độ nhập môn của tính chất các sao thuộc chương Chư Tinh Vấn Đáp trong sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư thời Tống là rất hoàn chỉnh.

Nhưng các bạn trong lúc đọc về Chư Tinh Vấn Đáp (hỏi đáp về các sao), nhất định sẽ thấy 2 loại thuật ngữ “Tại Số” và “Hóa khí”, như: “Liêm Trinh thuộc Hỏa, là sao thứ năm của Bắc Đẩu, tại đẩu ti phẩm trật, Tại Số ti quyền lệnh, không lâm vào chỗ miếu vượng lại phạm thêm Quan phủ, cho nên Hóa Khí gọi là Tù,…”

Rốt cuộc “Tại Số” và “Hóa Khí” đại biểu ý nghĩa gì?
Giải thích rõ cái gì gọi là “Tại Số” của tính chất sao?
Giải thích rõ cái gì gọi là “Hóa Khí” của tính chất sao?

Tổ hợp các sao tọa thủ: đại biểu đầy đủ đặc tính của cung, đây là giải thích rõ về cái gọi là “Tại Số” của các tinh đẩu, ví dụ như: Thiên Tướng ở cung Huynh Đệ thì có thể nói rằng người anh em thích cơm ngon áo đẹp.

Can cung Tứ Hóa: Cái này giải thích rõ về cái được gọi là “Hóa Khí” của sao tọa trong cung. Ví dụ như, cung Huynh Đệ có Thiên Tướng độc tọa, mà cái hóa của Can cung này phi Tứ Hóa nếu như thành ra Hóa Kị xung cung Mệnh thì chẳng thể được nhờ vả gì với người anh em của mình, bởi vì Ấn tinh hóa Kị tới xung Mệnh. giải thích rõ về cái được gọi là “Hóa Khí” của tính chất sao.


CHƯƠNG 5: MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ TÍNH CON NGƯỜI VỚI CÁC CUNG VỊ

Tính tình của con người cũng là do những cung vị khác nhau biểu hiện ra, không được chỉ căn cứ vào mỗi một tổ hợp sao ở cung Mệnh mà có thể kết luận được cá tính. Nhất định phải từ các tổ hợp các sao cùng 12 cung vị từ cung Mệnh, cung Huynh Đệ, cung Phu Thê,... mà phán đoán tính cách con người.

Ví dụ như: cung Tài Bạch ta có thể xem được khả năng nắm giữ tiền bạc của một cá nhân, khả năng điều hành, năng lực kiếm tiền ở bên ngoài cùng với nguồn tiền. Cũng có thể xem đuợc thái độ của một cá nhân đối với tiền bạc;
Nếu có sao Hóa Kị của năm sinh thì tương đối bảo thủ, tiết kiệm, keo kiệt.
Nếu có Hóa Quyền của năm sinh gặp Tự hóa Quyền thì là người dám kiếm tiền dám chi tiêu, sẽ tương đối không biết giữ tiền, nhưng sẽ nghĩ mọi biện pháp để kiếm tiền;
Còn nếu có sao Hóa Quyền của năm sinh tọa thủ, lại gặp Tự hóa Kị thì sao? Thì có khuynh hướng “tùy hứng, thích thì làm”, bởi vì có sao Hóa Quyền của năm sinh quản chế, cá tính có cố chấp nhưng không đến mức quá đáng.
Vì thế, dù cung Tài Bạch chủ quản về [vận đồ của những thứ liên quan đến tiền bạc] nhưng kết hợp những đặc tính đó sẽ biểu hiện ra hành vi và thành ra một dạng biểu hiện đặc trưng của [tính cách].




Như mệnh bàn phía trên, ta thấy sao Thái Dương tọa Mệnh thì phải luận đoán cá tính thế nào?

Đương nhiên không được quên cung Mệnh có Chính tinh Thái Dương, nhất định sẽ ảnh hưởng tới tính cách của người đó. Còn cung Thiên Di có Thiên Lương hóa Lộc thì sao vậy? Nó cũng sẽ mang lại đặc tính giỏi về khả năng giao tiếp, tài ăn nói lưu loát, và cung Mệnh có sao Văn Khúc hội hợp thì càng tăng thêm khả năng lực về giao tiếp, tài ăn nói. Cung Quan Lộc có Cự Môn, Hữu Bật, bởi vì sao Cự Môn chủ về ám, ẩn bên trong, cho nên sẽ biểu hiện tính cách là thích tỏ vẻ huyền bí, có điều giấu diếm hoặc lừa dối. Nhưng tại cung Mệnh lại có có sao Thái Dương chủ trong sáng vô tư, quang minh chính đại. Do đó ta thấy việc lừa dối đây không phải mang tính chất là ác ý, có tính hài hước, hay nói đùa hoặc nói dối có thiện ý. Vì vậy, sau khi xem các sao trên toàn bộ lá số, thì mới có thể nắm được tính cách của người chủ lá số.

Còn như, Tứ Hóa của năm sinh trong mệnh bàn đối với cá tính có sản sinh ra ảnh hưởng hay không?
Chắc chắn là có sức ảnh hưởng, hơn nữa sức ảnh hưởng của chúng còn rất mạnh. Lấy mệnh bàn ở trên để nói, cung Thiên Di nếu chỉ có sao Thiên Lương mà thôi, do Thiên Lương có tính [tự tạo khuôn phép] cho nên [sẽ tiết chế hành vi, tự ràng buộc mình]; thế sau khi [Hóa Quyền] thì thế nào? sẽ [tăng mạnh năng lực tự tọa khuôn phép, cùng theo đó yêu cầu người khác tuân theo] mà trở thành tính cách [bá đạo, chuyên chế]. Cho nên các sao có hóa hay không có hóa tinh đồng cung thì đối với tính chất của chúng sẽ tạo thành sự biến đổi rất lớn, các bạn phải rất thận trọng.

Bây giờ lấy vài ví dụ thực tế, nói rõ về Tứ Hóa của năm sinh và các sao Hóa ở các cung nhân sự bên ngoài cung Mệnh ảnh hưởng tới tính cách con người:

Thiên Lương hóa Quyền tại cung Huynh Đệ: là người độc tài, mặc kệ người khác thế nào thì họ đều phải nghe lời hắn. Bởi vì Thiên Lương là thống soái, sau khi hóa Quyền thì uy quyền của nó càng tăng lên, không thể xâm phạm, cho nên đặc biệt độc tài.

Cự Môn hóa Kị tại cung Phúc Đức: là người thích nói dối và không thành thực nhưng lại tin vào tôn giáo, rất thành kính có thiện tâm, có sự đồng cảm. Nói tới nói lui, rất lộn xộn bởi vì Cự Môn chủ thị phi (đúng sai), nhân vì nó Hóa Kị cho nên không phân biệt được đúng sai. Đã không còn khả năng phán đoán, năng lực phân tích, mà chỉ có linh cảm, trực giác nên rất dễ đi sâu vào mê tín.

Tham Lang hóa Quyền gặp Văn Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch: loại kết cấu này là dạng Thủy Hỏa không tương thích với nhau, Hóa Quyền và Hóa Kị không tương hợp nhau cho nên độc tài bá đạo, gàn dở bướng bỉnh, lúc thì yêu thương còn có lúc thì bạo ngược, cá tính tráo trở không có sự trước sau như một, người nhà đều phải nghe theo, vâng lời theo, loại người cáu kỉnh này rất khó chiều.

Như ví dụ kể trên, đối với tính cách thì các sao Hóa có sức ảnh hưởng rất lớn mặc dù không nằm trong cung Mệnh. Thậm chí ngay cả các tổ hợp sao và Hóa tinh ở trong cung Điền Trạch cũng có ảnh hưởng lớn đối với cá tính. Đây là điều thông thường cơ bản mà người mới học phải luôn ghi nhớ trong lòng, không thể chỉ dựa vào những tổ hợp sao ở cung Mệnh và cung Phúc Đức để luận đoán cá tính.

CHƯƠNG 6: LẬP HƯỚNG LÀ GÌ?

Lập hướng là cơ sở của việc đoán mệnh trong Đẩu Số, có năng lực lập hướng thì mới có thể nắm giữ manh mối, phân tích mệnh bàn. Cái gì gọi là lập hướng, đó chính là tìm điểm bắt đầu sự kiện và tìm cung vị đối ứng trong mệnh bàn Đẩu Số.

CHƯƠNG 7: DẤU HIỆU ĐẨU SỐ VÀ SỰ KIỆN NHÂN SINH

1. Thiên Can: gồm có Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
2. Địa Chi: gồm có Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
3. Các sao: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương,… 28 sao chủ yếu (14 chính tinh, Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà, Lộc Tồn, Thiên Diêu, Thiên Hình, Xương Khúc, Tả Hữu)
4. Tứ Hóa: Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, đây là 4 ngôi sao Hóa
5. Hóa tinh: sao Cự Môn của[Cự Môn hóa Kị] (chú thích: “Hóa tinh” nghĩa là “sao biến hóa”, có lẽ tác giả muốn nói đến cái sao gốc trước khi nó xảy ra việc hóa).
6. Cung vị: 12 cung gồm Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Nữ, Tài Bạch, Tật Ách,…

Những dấu hiệu này thành cơ sở suy luận trong Tử Vi Đẩu Số, có thể suy đoán một cách chính xác hệ thống tín hiệu nhân quả của sự việc hoặc hiệu ứng của họa phúc cát hung.




CHƯƠNG 8: QUAN HỆ ĐỐI ĐÃI CỦA LỤC THÂN

 Lục Thân là 6 loại cung vị: 1, Mệnh; 2, Bào; 3, Phối; 4, Tử Tức; 5, Nô; 6, Phụ

Cái mà lục thân cung đại biểu chính là mối quan hệ của [Ngươi với Ta, Ta với Người], vậy thì phải dùng những dấu hiệu nào biểu hiện cái mối quan hệ ấy?

Tinh đẩu tọa trong lục thân cung, đại biểu cho đặc tính của lục thân. Ví như: Huynh Đệ (Bào) cung có Thiên Tướng độc tọa, đại biểu rằng sau khi anh chị em của đương số được sinh ra, anh chị em của họ sẽ có đặc tính của sao Thiên Tướng hoặc cung Mệnh của họ vừa đúng có luôn sao Thiên Tướng. (*truyền tinh)

Muốn xem quan hệ đối đãi của anh em với đương số, thì phải xem Tứ Hóa từ Can cung Huynh Đệ xung chiếu hội nhập lên tam phương tứ chính của cung Mệnh mà định, tỉ như: Thiên Can của cung Huynh phi Hóa Lộc, Quyền, Khoa đều nhập vào các cung tam hợp Mệnh, thì cho thấy giữa anh em và đương số nhất định cùng chung chí hướng, tình cảm hòa hợp, yêu thương lẫn nhau. Còn nếu như là Hóa Kị xung Mệnh, nhất định là không hài lòng, anh em cách trở không có sự giúp đỡ qua lại

1 ví dụ để thuyết minh:




Phép [mượn cung] chính là dùng một cung trong mệnh bàn để biểu thị cho một hiện tượng của nhân sự không tồn tại ở mười hai cung cố định trong mệnh bàn. Ví dụ như cung Bào có thể mượn cung để trở thành Mẫu cung (cung mô tả mẹ đẻ của đương số) bởi vì khi lấy cung Phụ Mẫu gốc làm cung Mệnh, thì cung Bào gốc trở thành cung Phu Thê của cung Phụ Mẫu gốc. Và nguyên do cung Bào gốc chính là cung Phụ Mẫu của cung Phu Thê gốc chính là bởi vì đặt cung Phu Thê gốc làm cung Mệnh, thì cung Bào gốc lại trở thành cung Phụ Mẫu của cung Phu Thê gốc, nếu mệnh đang xét là nữ, thì cung Bào của đương số cũng chính là đại biểu cho cha mẹ chồng, nếu là nam mệnh thì cung Bào của anh ta chính là đại biểu cho bố mẹ vợ. (chú: đây là phép “cung chức hoán vị” )

Ví dụ: Muốn luận đoán tình huống của đương số đi làm công ty hay tự kinh doanh, có thể dùng cung Tật Ách để xét, bởi vì lấy vị trí nhà cửa (như cung Điền Trạch) của nơi chốn đi làm (là chỗ của Quan Lộc) - tức là vị trí của nhà xưởng hoặc công ty. Nếu phải xem hành vi của vợ chồng (tức là sinh hoạt tình dục), thì dùng cung Phúc Đức để đại biểu, cũng vì cung Phúc Đức cũng chính là cung Quan Lộc của cung Phu Thê, lại vừa có thể dùng nó để luận về sự nghiệp của vợ-chồng.


CHƯƠNG 9: NGŨ HÀNH VÀ TÍNH MIẾU HÃM LỢI VƯỢNG CỦA CÁC SAO

Giả sử có một mệnh tạo Thiên Cơ rơi vào cung Tý, do thủy sinh mộc, cho nên Thiên Cơ vượng tướng, nếu xét đầy đủ can cung [Mậu Tý] thuộc hỏa, mất đi cái khí thủy sinh mộc, tính chất tốt đẹp của Thiên Cơ bị ức chế mà không thể phát huy, ta có thể giả thích: mệnh tạo được có tư chất thanh quý, tiếc vì hậu thiên hành vận ngang trái, khó có thể giữ được sự thanh quý ấy, hoặc khó có thể phát triển. Đây là sự giải thích khi luận mệnh cách, nhưng Ngũ Hành Nạp Âm cũng sẽ ảnh hưởng đến thành tựu của đời người, cho nên khi ứng dụng thực tế phải phân biệt rõ ràng 2 cái loại Ngũ Hành ấy.


CHƯƠNG 10: TỔ HỢP SAO ẢNH HƯỞNG TỚI VẬN THẾ

Lúc quan sát tổ hợp sao, xét các tình huống sinh ra lực ảnh hưởng sau đây, nhất định phải cân nhắc kĩ lưỡng:
- Các sao nhập vào Đối cung – cát tinh thì có trợ lực, hung tinh thì tai hại, tối kỵ hợp thành cách cục hung ác.
- Các sao nhập vào các cung Tam hợp – cát tinh thì có trợ lực, hung tinh thì tai hại, tối kỵ hợp thành cách cục hung ác.
- Các sao nhập vào lân cung giáp ở hai bên trái phải – cát tinh thì có công dụng phụ tá, lực phù trợ, còn sát tinh thì là cái ý nghĩa về sự kìm kẹp áp chế.


CHƯƠNG 12: QUAN HỆ GIỮA THIÊN CAN VÀ TỨ HÓA TINH

Mọi người làm việc đều tuân theo cái trình tự mà thi hành:
Suy nghĩ – Thực hiện – Kết quả - Thu liễm (Thu dọn).

Tử Vi Đẩu Số sử dụng sự đối ứng:
Hóa Lộc – Hóa Quyền – Hóa Khoa – Hóa Kị.

Trong Tử Vi Đẩu Số, dùng 4 cái trình tự Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, để mà đại biểu hàm nghĩa như sau:

Hóa Lộc – nguyên nhân, tư tưởng.
Hóa Quyền – hành động, chấp hành, ước thúc, quản chế.
Hóa Khoa – công thành danh toại thu hoạch
Hóa Kị - hưởng thụ, tiềm tàng, thu liễm.

Vì sao lại nói cái người [Cơ Nguyệt Đồng Lương cách] làm việc có kế hoạch, có trình tự, hơn nữa còn là cách cục từng bước từng bước hướng tới thành công? Bởi vì 3 Thiên can liên tục là Ất, Bính, Đinh diễn sinh Tứ Hóa đều nếu không phải là ở tam phương của cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì cũng là tới chiếu vào tam phương.


CHƯƠNG 13: TỨ HÓA NHẬP MÔN

Ý nghĩa phổ biến của Tứ Hóa tinh là:

Hóa Lộc: nhân duyên, tài lộc, tình duyên, tài nghệ, hưởng thụ.
Hóa Quyền: thành tựu, quản chế, bá quyền, tự kiêu, cầm quyền, nguyên tắc.
Hóa Khoa: thiện duyên, giải ách, quý nhân, công danh, quý trọng, tài nghệ.
Hóa Kị: thiếu nợ, đạo nghĩa, hung họa, dính chặt, thay đổi, mất đi, đạt được.

Lúc vận dụng thì dựa vào cung vị chớ đừng lấy ý nghĩa sao tổ hợp trong cung để hiểu, như Hóa Khoa tại Tật Ách, thì phải lấy nghĩa của “Tật Ách” để hiểu chứ không thể giải là “Công Danh” được.

Đẩu Số dựa vào [Thời] để lập Mệnh, đi theo Địa Chi, phân tán vào trong 12 cung mà lập cực, ứng với thời gian các tinh tú. Đẩu Số xem trọng [Số] để lập Tượng, áp dụng Thiên can, thúc đẩy Tứ Hóa phi cung hóa diệu, bài bố không gian mà gieo tượng.

Cái gọi là [Hóa], chính là sự biến hóa cái khí của các sao vậy, cũng là nói về việc đem chuyển hóa tính chất của các sao thành năng lượng lành dữ tốt xấu, biểu thị vận trình thăng trầm của thế gian, cảnh vui buồn hợp tan của nhân sự. Các sao đều có tính chất riêng, chia Âm Dương, có Âm Dương mà sinh Ngũ Hành, chính là bản tính của các sao, cho nên được gọi là “tinh tính” (tính chất các sao).

Tứ Hóa theo Can năm sinh
Tứ Hóa theo Cung mệnh
Tứ Hóa theo Đại Hạn
Tứ Hóa theo Lưu niên
…….

Tứ Hóa năm sinh tứ hóa rơi vào mười hai cung trong chủ thùy tượng, vô cát vô hung, thuộc tĩnh.

Tứ Hóa năm sinh với tác dụng Tứ Hóa tương hỗ lẫn nhau trên 12 cung, sinh ra lành dữ, thuộc động.

Ý nghĩa tổ hợp Song Hóa tinh có thể giải thích đơn giản như sau:

Lộc, Quyền đồng cung: tài lợi, phát đạt, danh lợi song toàn, thành tựu.
Lộc, Khoa đồng cung: sau khi thành danh mới được lợi, tài chính vững, có tài cán.
Lộc, Kị đồng cung: luận là song Kị.
Quyền, Kị đồng cung: khổ cực lấy kỹ năng kiếm tiền, với người với việc đều có sự nghi ngờ đầu voi đuôi chuột.
Khoa, Kị cùng cung: dùng kỹ thuật để sinh ra tiền tài, thu nhập vững vàng mà tốt, không quá tham lam tài lợi.

Nay lấy 1 ví dụ để nói rõ Tứ Hóa năm sinh nhập vào cung


Lộc năm sinh ở Tử Tức: con cái thông minh, nhân duyên tốt, ngày sinh sẽ có thành tựu, bổn mệnh cũng tương đối quan tâm con cái, đem tiền đầu tư dạy dỗ con cái.

Quyền năm sinh ở Thiên di: xuất ngoại thành công, được mọi người tán thưởng thừa nhận, thích hợp xuất ngoại phát triển.

Khoa năm sinh ở Quan lộc: sự nghiệp vững vàng, duy trì trình độ tương đối, khó khăn bất trắc thường xuyên có trợ lực.

Kỵ năm sinh ở Huynh Đệ: quan tâm anh em, tuy giữa anh em có khá nhiều tranh chấp, nhưng không giảm tình cảm, anh em có khó khăn cũng sẽ rút đao tương trợ, anh em không thường ở chung một chỗ.


CHƯƠNG THỨ 14: ỨNG DỤNG CỦA TỨ HÓA

Tử Vi Đẩu Số dùng lá số để suy đoán mệnh vận, bên trong lá số thì có Thể có Thần.  Nói đơn giản, tam hợp phương của cung Mệnh là Thể, còn Tứ Hóa trên lá số gốc là Thần.

[Thần] dẫn lối mà cái [Thể] hành động. Nhưng không phải là cái [Thể] khống chế cái [Thần], rõ ràng là sự dẫn dắt chủ yếu của vận mệnh đều ở tại Tứ Hóa dụng thần, còn Cách Cục có địa vị thứ yếu, có sự thúc giục của Tứ Hóa mới có thể biến thành hành động, chứ không phải là bất kỳ mệnh tạo nào có Cách Cục tốt thì đều có thể giành được sự nghiệp vĩ đại.

Tứ Hóa là dựa vào Thiên Can mà quyết định việc hóa hay không hóa, từ Thiên Can năm sinh để xác định ra 12 Can cung, mỗi một Can cung lại chủ nắm giữ 4 ngôi Hóa tinh, 12 cung phi xuất ra 48 ngôi Hóa tinh khác nhau. Những thứ này từ mệnh bàn (lá số) gốc phi xuất các Hóa tinh sẽ cùng với Tứ Hóa theo Thiên Can năm sinh cọ xát nhau mà sinh ra các hiện tượng lành dữ khác nhau. Đây chính là Dụng Thần của lá số gốc. Khi vận thế chuyển động, Tứ Hóa của lá số gốc lại sẽ cùng với Tứ Hóa của Đại Hạn, của Lưu Niên tứ hóa phát sinh ảnh hưởng, liền hiện ra cát hung của vận đồ vậy.

Mọi người thấy Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa tọa Mệnh, thì trong lòng âm thầm vui mừng khôn xiết, còn nếu như thấy Hóa Kị ở cung Thiên Di chiếu Mệnh liền âm thầm kinh hãi, nguy rồi! Bị Hóa Kị nhìn chòng chọc nhất định sẽ không thuận lợi, sẽ có thị phi. Những quan niệm và nhận xét đó chưa hẳn hoàn toàn đúng, bởi vì nếu như không chú ý đến khác biệt giữa [Hóa Nhập] với [Hóa Xuất ], thì không cách nào phân biệt được sự [Xuất] với [Nhập], sẽ không biết được Hóa Lộc là [Được] hay [Mất], không biết Hóa Kị là [Cát] hay [Hung].

Phàm là Tứ Hóa phi xuất từ Can năm sinh, bất kể rơi vào cung vị nào thì cũng gọi là [Hóa Nhập]. Nếu Can cung của cung vị mà chúng rơi vào lại không khiến cho các sao tọa trong cung ấy tự hóa, thì gọi [Hóa Trung]. Ba ngôi Hóa tinh cát lợi từ Can năm sinh thì tốt nhất là rơi vào các cung Mệnh, Tài, Quan (còn gọi là cung Sự Nghiệp) của lá số gốc, còn sao Hóa Kị không được ở cung Thiên Di, Phúc Đức, Phu Thê để xung tới tam hợp (tức là sợ bị xung vào Mệnh Tài Quan), đây chính là cái được gọi là [Tam Cát gia hội cách]. Thế nhưng cách cục ấy nhất định cần cung Mệnh tọa sao Hóa Lộc thì mới có hiệu dụng; còn nếu như từ tam phương chẳng có Tam Cát hóa tinh hội nhập về cung Mệnh, thì chỉ chủ về quang cảnh bề ngoài mà thôi, là ảo chứ không thực.

Giải thích về Tứ Hóa, giản dị như sau:

Hóa Lộc chủ tình duyên, tài lộc;
Hóa Quyền chủ quản chế, uy nghiêm;
Hóa Khoa chủ khoa bảng, giáo dục, văn hóa;
Hóa Kị chủ cất giấu, hối hận sai lầm.

Bởi vì Tứ Hóa theo Can năm sinh đều là Hóa nhập, cho nên ý nghĩa của các Hóa đó nhập vào trong cung vị của mệnh bàn có thể xem xét cân nhắc để giải thích. Thế nhưng Hóa Kị theo Can năm sinh rơi vào cung lục thân chính là mang ý nghĩa nợ nần, nếu như rơi vào các cung Điền Trạch, Phúc Đức, Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên Di thì đại biểu cho tư tưởng đặt vào những nơi đó, bởi vì chữ Kị (忌) mang ý nghĩa chiết tự là cái "Tâm” (心) của “Bản thân” (Kỷ 己), cho nên Hóa Kị theo Can năm sinh xuất hiện ở cung Điền Trạch đại biểu cho người đó đặt cái tâm ở gia đình, hết giờ đi làm thì liền muốn ở trong nhà mà ít đi ra ngoài, đây là cái tượng ẩn tàng. Nếu như Hóa Kị ở cung Huynh Đệ, thì đại biểu cho cái tâm đặt ở những người anh chị em, vì vậy sẽ chi trả tiêu tốn cho anh chị em, cho nên thành nợ nần; đương nhiên, vì Hóa Kị ở cung Huynh Đệ nên anh chị em sẽ tương đối không thuận lợi, đó là hiện tượng tất nhiên.

Can của năm sinh cùng với Can của một cung nào đó trên mệnh bàn có sự tương đồng, thì đại biểu cho những hoạt động và vận trình thăng trầm trong cuộc đời của người này là đều có mối quan hệ chặt chẽ với cái cung ấy (Lai Nhân Cung). Thí dụ như: người nào đó năm sinh là Giáp, mà cung Tài Bạch trên lá số cũng có Can là Giáp, thì những hoạt động trọng điểm trong vận mệnh cả đời của người đó đều lấy của cải và việc kiếm tiền để làm chủ, hơn nữa còn là thuộc về cái cách tự lập cánh sinh. Còn nếu như Can năm sinh với Can của cung lục thân có sự tương đồng, thường thường sẽ sản sinh tính liên quan chặt chẽ cung lục thân ấy.

Các cung Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc, Điền Trạch gọi là Ngã Cung (gọi là cung của mình vì những cung này mình có thể điều khiển được theo ý mình), cái khác xưng là Tha Cung (gọi là cung ngoài mình vì những cung đó có ý chí riêng và ta khó có thể điều khiển được). Tứ Hóa cần được nhập vào Ngã Cung thì mới tốt, còn nhập vào tha Cung tức là Hóa Xuất, chủ về những sự tổn thất, bất lợi.

Tinh tú sau khi đụng tới Tứ Hóa, sẽ biến đổi chứ không phải là như tính chất vốn có ban đầu, thí dụ như Thiên Lương hóa Lộc tọa cung Thiên Di ở trong phú văn của các bậc tiên hiền về Đẩu Số thì có nói là [cự thương cao cổ] (buôn to bán lớn) thì so với tính chất thanh cao của sao Thiên Lương là hoàn toàn khác biệt. Vì vậy, một khi gặp Tứ Hóa, tính chất của sao sẽ hoàn toàn thay đổi, cho nên tính chất của sao và Tứ Hóa là cần phải luân phiên mà sử dụng.

Tỷ như mệnh lệ 1:



Vũ Khúc, Thiên Tướng tọa Mệnh ở cung Nhâm Dần, đối chiếu với cách nói thông thường trên sách, người này giàu nghĩa khí, thích bênh vực kẻ yếu, cá tính chính trực kiên cường. Tam hợp lại là [cách Tử Phủ triều viên], người này thường qua lại kết giao cùng giới nhân sĩ quân đội, chính trị, tài chính, cũng nhờ sự trợ giúp của bọn họ mà thành công, trở thành hào phú, cuộc đời nhiều yến tiệc.

Lại xem Tứ Hoá theo Can năm sinh:
Hóa Lộc rơi vào cung Tử Tức: Người này thương yêu con cái, có tiền liền dành để tiêu pha cho con cái.
Hóa Quyền, Hóa Kị đều là rơi vào cung Huynh Đệ: Hóa Kị vốn chủ mắc nợ với anh em, Hóa Quyền vốn cũng chủ anh em có thành tựu, hai sao rơi vào phản chuyển thành sự tranh chấp, tình trạng không hòa thuận.
Hóa Khoa rơi vào cung Điền Trạch: Chính là chủ về lượng nhà cửa đất đai vừa phải, không lớn không nhỏ.

Can cung Mệnh tọa Nhâm: Sao Vũ khúc tự hóa Kị, đây là Hóa Xuất, biểu thị cái tâm của mình hướng ra bên ngoài, cho nên sẽ tương đối không vì cái lợi của bản thân, thà rằng chính mình chịu thiệt cũng không chiếm lợi thế của người. Hơn nữa tâm đã hướng ra bên ngoài thì đối với mình sẽ thiếu sự tự tin, lại thêm Hóa Kị chủ về tượng ẩn tàng, cho nên Kị xuất thì sẽ không ẩn tàng được nữa, khiến cho của cải và danh lợi hầu hết đều vì không có cách nào che giấu nên tổn thất hoặc bị cơ hội trôi qua một cách uổng phí. Vì vậy cách cục kinh thương kiểu này thường không biết nắm cơ hội mà bị tổn thất, thực sự không thích hợp ở kinh thương, nếu miễn cưỡng phải làm việc buôn bán, cũng nên làm cửa hàng nhỏ lẻ, hoặc làm nghề mua bán dùng tiền mặt thì sẽ khá tốt.

Bây giờ ta xem mệnh lệ 2:



Là vị tiểu thư năm sinh Giáp Thìn, cung Mệnh cũng là ở vị trí cung Dần: sao Tham Lang, Thiên Diêu, Lộc Tồn cùng tọa Mệnh, tam hợp là cách cục [ Sát Phá Lang ], căn cứ đặc tính của sao Tham Lang, biết vị tiểu thư này tửu lượng không tệ, hiếu động giỏi ngoại giao, nhiều phen tiệc rượu, rất dễ dàng gần gũi người khác giới. Hơn nữa sao Thiên Diêu càng tăng thêm tính mạnh cho khuynh hướng này, may mắn cực kỳ khi có Lộc Tồn làm bạn, bằng không khó mà tưởng tượng nổi, mặt khác, giống như là tán dóc dụ cho người ghé mắt, chú trọng hưởng thụ vật chất, không thể chịu gian khổ mà kiếm tiền, có khuynh hướng đầu cơ mạo hiểm, có đặc tính thích thay đổi không kiên nhẫn, cũng không nên xem nhẹ.

Hơn nữa, tam hợp lại là cách [ Sát Phá Lang ], đặc tính của cách cục này là hiện trạng không yên, thích sáng tạo đổi mới, nghị lực kiên cường, không sợ gian khổ, thích biến động xuất ngoại, tánh tình nóng nảy, có quyết tâm về sự sáng lập, tính tương thích nhiều nghề nghiệp, có thể theo văn có thể theo võ.

Lại xem đến Tứ Hóa năm sinh:
Hóa Lộc của năm sinh rơi vào cung Thiên Di: tiên phong rất mạnh mẽ, quan hệ nhân tế không tệ, trong giao tế khảng khái. Hơn nữa hóa Lộc lại cùng với sao Lộc Tồn trong cung Mệnh tạo thành trạng thái đối chiếu, là kiểu cách cục tài nguyên thịnh vượng.
Hóa Quyền năm sinh rơi vào cung Tài Bạch: Thích nắm quyền sở hữu tài sản, tự mình chi phối việc sử dụng tiền tài, giỏi dùng tiền tài để đầu tư phát tài.
Hóa Khoa năm sinh rơi vào cung Phu Thê: Đại biểu trong đời sống tình cảm có sự trợ lực gặp dữ hóa lành, hơn nữa tướng mạo thân thể củangười chồng cũng rất cân xứng vừa phải;
Hóa Kị năm sinh rơi vào cung Huynh Đệ: Chủ người này mắc nợ anh chị em, sẽ vì anh chị em mà chi trả (vật chất hoặc tinh thần). Mà trùng hợp là Hóa Kị ở cung Huynh Đệ cùng sao Đà La (hóa khí cũng gọi là Kị) cho nên cung Huynh Đệ hứng cả cặp Hóa Kị, trong số anh chị em phải có sự tổn hại, hơn nữa vận trình của anh chị em cũng kém.

Lại xem tam phương, hội chiếu vào có Hóa Quyền và Hóa Lộc theo Can năm sinh, thì người này mặt mang quý khí, có sự uy nghiêm, đây là tính chất đặc biệt của Tứ Hóa dụng thần biểu hiện trên thân thể con người. Còn nói về Hóa Kị cảm quan là người trầm mặc ít nói; hơn nữa, cung Tài Bạch có Can là [Giáp] cùng với Thiên Can năm sinh tương đồng, cho nên biết người này là cách tự lập.

Can cung Mệnh tọa Bính: Liêm Trinh hóa Kị ở cung Thiên Di, đại biểu cái tâm ở bên ngoài, người này rất thẳng thắn, lòng dạ không sâu, dễ chung sống, đáng tiếc thường quên lời hứa; Thiên Cơ hóa Quyền ở cung Phụ Mẫu, Quyền tinh là chấp chưởng uy nghiêm, là sao về quyền thế, cho nên lúc nói năng với trưởng bối đương nhiên không khách khí, có lý thì cãi đến cùng, hơn nữa giỏi ăn nói, chẳng qua là cung Phụ Mẫu tọa can Đinh, khiến Cự Môn hóa Kị, dù có khéo tranh cãi cũng không có cửa, người ta không tha.


CHƯƠNG 15: Ý NGHĨA CỦA HÓA KỊ

Sách cổ viết [Hóa Kị là thần quản nhiều chuyện, thủ mệnh thân suốt đời không thuận. Tiểu Hạn mà gặp thì một năm thiếu thốn, Đại Hạn mà gặp thì mười năm hối tiếc ăn năn. Nhị hạn Thái tuế giao lâm thì chắc chắn bị lận đận]

[Hóa Kị dương Thủy, là sao quản nhiều chuyện ở thượng giới, chủ về thị phi khẩu thiệt, còn có tên là sao Kế Đô. Sao Hóa Kị chưa hẳn đã có thể phá cách, chỉ chủ có nhiều thị phi dây dưa mà thôi. Trước hết phải xem Chính Tinh có miếu vượng hay không, nếu miếu vượng thì có thuyết [Vượng địa hóa Kị cũng không ngại], Hãm địa thì chủ hung, lại còn có các sao thuộc Kim Thuỷ khi miếu vượng hóa Kị càng không kị (ngại), vẫn có cả phú quý, như Thái Âm ở Hợi hóa Kị, và Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tị nơi của Trường Sinh. Như các sao thuộc Hỏa Mộc hóa Kị ở vượng cung, như Thái Dương cư Ngọ, và Thiên Cơ hóa Kị ở Mão, phần lớn vẫn phú mà không quý, hoặc quý mà không phú]

Thì ra căn cứ vào những điều nói về Hóa Kị trong sách thì biểu tượng của sao Hóa Kị đều là không tốt lành, vì vậy làm cho mọi người khủng hoảng, trên thực tế có phải là như vậy hay không?

Rốt cuộc thì ý nghĩa của sao [Hóa Kị] là gì? Căn cứ trên mặt chữ để giải thích, chữ Kị (忌) mang ý nghĩa chiết tự là cái "Tâm” (心) của “Bản thân” (Kỷ 己), ý chỉ sao Hóa Kị nắm giữ các nghĩa [khốn đốn, hối hận, không thuận lợi] đều là do tâm cảnh (cõi lòng) của mình tạo thành. Giả như biết chỗ tiến thoái, không ham không lấy, không đòi không hỏi, tất cả tùy duyên thuận thế làm, tự nhiên mà hóa giải được ác tính của sao Hóa Kị, cho nên [Hóa Kị] là họa hay là phúc thì tất cả đều nằm ở ý niệm của người trong cuộc.


CHƯƠNG 16: VẬN THẾ LƯU CHUYỂN 

Lưu ý: phái này dùng Lưu Niên Thái Tuế (làm mệnh lưu niên), không dùng LNĐH, Lưu niên tiểu hạn

Vận mệnh là một hệ đồ thị 3 chiều của "Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện".

Có thể dùng 4 loại thế cục lá số là Bản Mệnh, Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt các loại --> bốn cái Mệnh bàn mà thôi, và 4 cái thế cục lá số này lại hoàn toàn liên kết, tầng tầng điều khiển.

Mệnh bàn của Đại Hạn với mệnh bàn của Lưu Niên có quan hệ mật thiết. Thí dụ như tiểu thư A năm nay (1998) là 35 tuổi, đã tiến vào cung Đại Hạn thứ tư, cho nên các cung vị của vận Lưu Niên 35 tuổi và của Đại Hạn thứ tư sản sinh mối quan hệ, còn đối với cung vị của Đại Hạn thứ ba thì nó đã tách biệt rồi nên không liên quan nữa. Cung Mệnh của Lưu Niên 35 tuổi ở Dần, cái 11 cung khác cũng theo thứ tự lần lượt điền vào. Nhưng vì để tránh cho lá số lem nhem bẩn thỉu, chỉ ghi chú rõ ở góc cung Dần số 35 mà thôi, biểu thị [cung Mệnh của Lưu Niên] 35 tuổi dừng chân ở chỗ này.




Còn quy tắc phép khởi của Lưu Nguyệt là:

Từ cung Mệnh của Lưu Niên (Lưu Thái Tuế) bắt đầu tính, nghịch kim đồng hồ đếm tới tháng sinh, rồi tại cung mà tháng sinh rơi vào ấy bắt đầu tính là giờ Tý, thuận kim đồng hồ đếm tới giờ sinh, chính là chỗ sở tại của tháng Giêng của Lưu Nguyệt, với 11 tháng còn lại thì cứ thuận kim đồng hồ theo như tự viết vào bên trong cung là được. Cung sở tại của tháng Giêng gọi là là Đẩu Quân (chính là sao Lưu Đẩu Quân). 

Trong lúc đoán mệnh, thông thường đều từ cung Mệnh của Đại Hạn bắt đầu xem đi, có vài người suy tính vận Lưu Niên lại hay dùng cung Mệnh của Lưu Niên để suy tính, đây là quan niệm không chính xác. Bởi vì cát hung của Lưu Niên sẽ ứng nghiệm ở Lưu Nguyệt, không hề chủ tốt xấu của Lưu Niên, còn cát hung của Lưu Niên cần phải từ Đại Hạn để suy tính. Nếu không thì cứ mỗi 12 năm sẽ lặp lại một lần, muốn phân biệt sự khác nhau giữa chúng thì hoàn toàn phải dựa vào Đại Hạn, cho nên Đại Hạn là một khâu vô cùng trọng yếu.

Thí dụ như: Muốn tài vận của Lưu Niên, thì trước tiên xem Tứ Hóa của cung Tài Bạch của Mệnh gốc và cung Tài Bạch của Đại Hạn được phân bố trên lá số ở góc độ nào? Có hay không sự hình thành góc độ đặc biệt, nếu như hình thành góc độ đặc biệt thì sẽ sinh ra lực cảm ứng lành dữ. Lúc này sẽ lại căn cứ tổ hợp tinh tú để suy đoán cát hung của tài vận Lưu Niên. Tuyệt đối không thể trực tiếp dùng Tứ Hóa hoặc tổ hợp tinh tú của cung Tài Bạch Lưu Niên để suy đoán liền về năm đó tài vận có may mắn hay không, như thế nhất định sẽ phạm sai lầm, bởi vì thiếu đi 2 cái mắt xích liên kết với Mệnh gốc và Đại Hạn, thì sự kiện cũng sẽ không thể thành lập được.

Cho nên, lúc suy đoán vận Lưu Niên thì Đại Hạn chính là dấu vết đã bước qua của sự suy đoán Lưu Niên, còn Lưu Niên chính là thừa hưởng những kết quả sau khi ảnh hưởng của Mệnh gốc và Đại Hạn, ngàn vạn lần không thể nhầm lẫn cái thứ tự này.

Từ quan niệm ấy để xem, lúc đoán Lưu Niên, là [Dụng] các sao Tứ Hóa của Đại Hạn, xem mối quan hệ giữa chúng với cái [Thể] của lá số gốc, cho nên lúc đoán Lưu Niên thì lấy lá số gốc làm [Thể], lá số Đại Hạn làm [Dụng], đầy đủ Thể Dụng mới có thể suy đoán được vận đồ. Nếu khi đoán Lưu Nguyệt, thì lá số Đại Hạn làm [Thể], lá số Lưu Niên làm [Dụng]; sao Hóa Kị của [Dụng] không được xung vào [Thể], nếu xung tới thì ắt có hung tượng phát sinh. Đương nhiên, các sao Hóa cát như Khoa Quyền Lộc của [Dụng] mà nhập vào [Thể] hoặc chiếu đến [Thể] thì đều chủ về cát tượng. Đây chính là quan niệm cơ bản của việc đoán mệnh, không thể không biết!

Bởi vì Lưu Niên chính là từ ảnh hưởng của Mệnh gốc và Đại Hạn mà hiển lộ ra dấu hiệu, nếu Lưu Niên có dấu hiệu thì đến khi suy tính Lưu Nguyệt mới có ý nghĩa, nếu Lưu Niên không có dấu hiệu lại đi đi suy tính thẳng đến Lưu Nguyệt thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Vì vậy, lúc đoán mệnh cần lần lượt từng bước từ từ mà thâm nhập. Đương nhiên, còn phải cân nhắc mối quan hệ giưa lá số Đại Hạn và lá số gốc, cũng chính là cần xem kỹ cung X của Đại Hạn là cái cung vị nào của lá số gốc? Thí dụ như: cung Mệnh của Đại Hạn là cung Phu Thê của lá số gốc, thì nam nữ đều có xu hướng kết hôn rất rõ ràng. Nếu cung Tài Bạch của Đại Hạn là cung Nô Bộc của lá số gốc, thì sự tốt xấu của tiền tài sẽ có quan hệ rất rõ ràng với bạn bè. Đây mới chỉ là một dạng cách xem thô thiển, cơ chế ảnh hưởng thực tế còn phải có sự dính líu đến Tứ Hóa mới có thể biết được mối quan hệ thực sự.


CHƯƠNG 17: SỰ KHÁC NHAU CỦA HÓA XUẤT VÀ HÓA NHẬP

"Năm gặp Kị xung hoặc tọa Kị thì coi chừng phát sinh các chuyện như tổn thất tiền tài, sự nghiệp thất bại, thân thể tổn thương". Thế nhưng sau khi trải qua năm đó vẫn tung tăng vui vẻ, suôn sẻ cực kỳ. Vì sao suy luận và thực tế lại sinh ra sự khác biệt lớn như vậy? Ắt là bỏ quên sự khác biệt giữa [Nhập] và [Xuất]. Nhưng, cái gì gọi là [Xuất]? cái gì gọi là [Nhập]?

Giả như đem 12 cung vị trên lá số, căn cứ theo mối quan hệ giữa chúng với ta có tính gắn bó hay không để mà chia làm Tha cung (cung của nó) và Ngã cung (cung của ta). Như thế thì, một cung nào đó (lấy cung X để gọi) có Hóa nhập vào cung vị của ta, thì gọi là [Hóa Nhập]. Hóa Nhập vào cung vị của ta thì đương nhiên những sự việc được chủ bởi cái cung X đó [là cái ta nhận được, là cái ta dụng được], là ý nghĩa cát lợi. Nếu mà cung X hóa nhập cung vị của nó, tức là [Hóa Xuất], ý nghĩa như tên gọi, đó là những sự việc được chủ bởi cái cung X đó lại bị người khác đoạt được, hay được sử dụng vì người khác, thế thì đối với ta chính là cái hàm ý [tổn thất, không chiếm được]. Vì vậy phân chia rõ ràng sự khác biệt của [Xuất] và [Nhập], mới biết được Tứ Hóa của cái cung X đó phi ra thì đối với ta mà nói là ý nghĩa cát hoặc hung.


Phi tinh Tử Vi Đẩu Số dùng các cung vị gồm:

Cung Mệnh (1) – Tài (5) – Quan (9) - Điền (10) – Phúc (11) - Tật (6), vì có sự gắn bó chặt chẽ với ta nên các cung vị của [Ta] được gọi là [Ngã Cung] (nghĩa là cung của Ta).

Còn các cung như Nô (8) – Bào (2) – Phối (3) – Tử (4) - Phụ (12) - Thiên Di (7) đều không thuộc về ta nên các cung vị của [nó] được gọi là [Tha Cung] (nghĩa là cung của Nó).

Những cung vị này phi xuất Tứ Hoá rơi vào các cung mệnh cục khác nhau, bởi vì cung vị phi nhập có sự phân biệt giữa Tha Cung với Ngã Cung, mà cái cung khởi phi lại cũng có sự phân biệt giữa Tha Cung với Ngã Cung. Do đó, có thể phân biệt được sự khác nhau của mối quan hệ [Xuất] và [Nhập] từ cung khởi phi của Tứ Hóa với cung mà chúng nhập vào, và cũng phân được ý nghĩa cát hung của chúng.

1, Tứ Hóa phi xuất từ Ngã Cung:
Nếu bàn về vận tiền tài của ta, thì lấy cung Tài Bạch làm bản cung, vì nó có liên quan với ta, mà Lộc với Kị đều từ bản cung phi xuất, căn cứ theo Lộc phi xuất hoặc Kị nhập Ngã Cung hay Tha Cung mà phán định cát hung, các loại hình cơ bản gồm có:

1.1, Lộc nhập Ngã Cung, Kị nhập Ngã Cung:
Cái này tức là nói đến cát với hung của sự kiện đều do chính mình gánh chịu, không thông qua sự trung gian của người khác, như: [Tài Bạch hóa Lộc nhập cung Mệnh, hóa Kị nhập Quan Lộc] tức là biểu thị cát hung của tiền tài đều là yếu tố cá nhân chứ hoàn toàn không liên quan gì đến những người khác, chính mình có nỗ lực hay không, hưng suy của tài vận do chính mình quyết định, cũng có thể nói chính là cách cục tự lực cánh sinh.

1.2, Lộc nhập Tha Cung, Kị nhập Ngã Cung:
Tuy là Hóa Lộc đến cho người khác, chính mình dường như không chiếm được, thế nhưng Hóa Kị phi nhập Ngã Cung, căn cứ hiện tượng của [Lộc theo Kị đi ] thì cái [Hóa Lộc] này sẽ bị [Hóa Kị] mang về Ngã Cung, nhưng là ta sở hữu, đối với ta thì tinh thần hoặc vật chất trước khi đầu tư trở về sau, đều có thể có sự quay trở lại, thuộc về loại hình [Đắng trước Ngọt sau], thí dụ như phương thức phi hóa của [cung Mệnh hóa Lộc vào Nô, hóa Kị vào Tài bạch ] chính là loại hình này.




1.3, Lộc nhập Ngã Cung, Kị nhập Tha Cung:
Theo hiện tượng của [Lộc theo Kị đi ] để giải thích, Hóa Lộc tuy nhập Ngã Cung, nhưng sẽ bị Hóa Kị mang đi ra ngoài đến Tha Cung. Thí dụ như: [Tài Bạch hóa Lộc nhập vào cung Mệnh, hóa Kị nhập vào cung Nô], loại hình thái phi hóa này nếu như có mối quan hệ qua lại về tiền tài với bạn bè thì ắt sẽ có tổn thất tiền bạc, tránh việc qua lại về tiền tài với bạn bè thì giảm thiểu được tổn thất, cũng có thể giữ được tình bạn.




1.4, Lộc nhập Tha Cung, Kị nhập Tha Cung:
Bất kể là tốt hay xấu đều giao cho người khác hết, đây là hiện tượng hung nhất. Thí như: [cung Tài Bạch hóa Lộc nhập vào Phụ Mẫu, hóa Kị nhập vào Nô] là đem tiền của mình giao cho bạn bè, tự mình thành ông thần tài qua cửa nhà bạn mà thôi. Thậm chí cả cuộc đời đều đi làm kiếm tiền cho người khác, mà chính mình chẳng được gì cả, loại người có hình thái này rất phù hợp với dân đi làm công trong ngành tài chính, không nên ham muốn những quyền lợi không thỏa đáng, biết đủ thì mới được hạnh phúc, sẽ có thể bình an qua ngày.

2, Tứ Hóa phi xuất từ Tha Cung:
Đó là hiện tượng phi Tứ Hóa từ Tha Cung, xem chúng nhập vào Ngã Cung hay Tha Cung để mà luận về cát hung.

2.1, Lộc nhập Ngã Cung, Kị nhập Ngã Cung:
Là tượng may mắn, thí dụ như: [Phụ Mẫu hóa Kị nhập vào Quan Lộc, hóa Lộc nhập vào Tài Bạch], khi Hóa Kị nhập vào Quan Lộc của ta thì dường như có sự bất lợi về sự nghiệp, thế nhưng có Hóa Lộc nhập vào Tài Bạch của ta, căn cứ vào nguyên lý [Lộc theo Kị đi ] thì chính là Tài Bạch của bạn bè (Nô) nhập vào Quan Lộc của ta, là có ý nghĩa rằng bạn bè mang tiền tới giúp đỡ, đầu tư cho ta.

2.2, Lộc nhập Ngã Cung, Kị xung Ngã Cung:
Hung tượng, chủ về tổn thất; đây cũng là hiện tượng của [Lộc theo Kị đi], tuy rằng Lộc nhập vào Ngã Cung, nhưng Kị tới xung Ngã Cung, cái Hóa Lộc ấy là Lộc ảo, sau khi có được thì còn trả lại hết, thậm chí còn phải trả cả vốn lẫn lãi. Cho nên gặp phải loại hình này thì không nên vì lúc đầu thu được Lộc mà ngộ nhận cho rằng đang ở tình thế tốt, mở rộng đầu tư, thường thường lúc này mới chính là thời khắc mấu chốt của việc thịnh đến cực sẽ sinh ra suy.




2.3, Lộc xung Ngã cung, Kị nhập Ngã cung:
Theo giải thích về tượng [Lộc theo kỵ đi], đây chính là cát tượng, thí dụ như: [Nô hóa Lộc xung cung Mệnh, hóa Kị nhập Tài Bạch] là hiện tượng bạn bè sẽ không đầu tư hoặc giúp đỡ ta, thế nhưng Hóa Kị nhập Ngã Cung thì vẫn sẽ dành cho sự ủng hộ về tinh thần hay đạo nghĩa, lúc này Ngã Cung không thể lại Tự Hóa, sẽ có sự khác biệt là điềm báo hiệu tổn thất, loại hiện tượng này sẽ không thể lại vay tiền bạn bè.

2.4, Lộc và Kị cùng nhập Ngã Cung:
Tốt xấu cát hung của Tha Cung, hoàn toàn từ Ngã Cung tiếp nhận, gặp Ngã Cung cát thì theo đó được cát, còn Ngã Cung hung thì theo đó xảy ra hung, thí dụ như: [cung Nô hóa Lộc nhập vào cung Tài Bạch, hóa Kị nhập vào cung Mệnh] là ý nghĩa bạn bè đem tiền giúp đỡ ta, thế nhưng Hóa Kị cũng nhập cung Mệnh của ta (Ngã), nếu như cung Mệnh là cát thì hiện ra cát tượng, còn cung Mệnh không cát thì sẽ sản sinh nguy hại, thật giống như cái ý [bạn bè lấy tiền giúp đỡ ta với mục đích là dụ ta cắn câu, sau đó sẽ tùy cơ để nuốt trọn sự nghiệp của ta].

2.5, Lộc và Kị cùng xung Ngã Cung:
Hung tượng, chủ về tổn thất to lớn, có lợi ở Tha Cung mà Ngã Cung không được hưởng, còn phải đề phòng Tha Cung tới xung vào Tài Bạch, Quan Lộc của ta. Chúng ta kiếm tiền, làm việc, cùng đối tượng qua lại với nhau, nhất định sẽ cùng Tha Cung sản sinh quan hệ, như tượng này chủ không được hưởng chỗ tốt, lại còn phải đề phòng bị nguy hiểm xung phá.

2.6, Lộc nhập Tha Cung, Kị xung Ngã Cung:
Cũng hiện ra hung tượng, nếu Lộc đã nhập vào Tha Cung, đối với ta cũng đã là bất lợi rồi, mà Kị lại tới xung phá Ngã Cung, cái tổn thất ấy càng lớn hơn nữa. Cái tượng (hình ảnh) này có ý nghĩa là chỗ tốt của nó dành cho người khác, lúc có chuyện hoặc gặp phải cửa ải khó khăn, thì mới tìm đến ta, đối với ta mà nói, ta nỗ lực trả giá mà không được hưởng chỗ tốt của nó, bởi vì nó đã bị người khác hớt tay trên hết rồi, chỉ có tới tìm ta cứu trợ.

Những quy tắc bên trên có thể đem áp dụng vào Đại Hạn để mà luận cát hung của Đại Hạn, nếu luận về cát hung của chuyện vợ chồng, có thể lấy cung Phu Thê làm cung Mệnh, rồi tìm ra Ngã Cung và Tha Cung của Phu Thê, [thí dụ như: cung Phúc Đức của Ta chính là cung Quan Lộc của cung Phu Thê, là thuộc về Ngã Cung của cung Phu Thê], cân nhắc tổ hợp các sao tọa ở trong cung, cũng như phi Tứ Hóa, sẽ biết ngay tốt xấu, lúc này, phi Tứ Hóa ứng với quy về lá số của ta để mà luận cát hung [thí dụ như: lấy Can của cung Phúc Đức phi Tứ Hóa, nhập vào cung Quan Lộc của ta, đại biểu cho sự nghiệp của vợ chồng cùng vận trình cũng không tệ ], nguyên tắc của những cung khác cũng như trên, cứ phỏng theo đó.


CHƯƠNG 18: QUAN NIỆM VỀ “THIÊN - ĐỊA – NHÂN”

Thuyết Thiên Địa Nhân của Tử Vi Đẩu Số không hề ám chỉ giới hạn trong mối quan hệ Mệnh gốc - Đại Hạn - Lưu Niên, mà là hàm ý mối quan hệ 3 vòng lòng ghép của [Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa], [Đoán mệnh, Hỏi mệnh, Mệnh bàn] và [lá số của Mệnh gốc, Đại Hạn, Lưu Niên], giữa chúng thông qua ảnh hưởng của Thiên Can, Địa Chi, Tứ Hóa mà liên hệ thành lập mối quan hệ tương hỗ qua lại.


CHƯƠNG 19: ẢNH HƯỞNG CỦA TỨ HÓA ĐỐI VỚI VẬN THẾ

Lưu ý: Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh chỉ dùng 28 sao. Do số sao ít mà sự việc thì nhiều, cho nên một sao phải dựa theo sự khác biệt về cung vị, cũng như sự kết hợp với các phụ tinh đồng cung để mà hiển hiện ra hình tượng khác nhau

[Thời gian Ứng nghiệm]: Phối hợp các tình huống hội hợp xung chiếu của Tứ Hóa ở trên mệnh bàn, từ Thiên Can của cung mà khởi phi Tứ Hóa, xác định ra cung vị Địa Chi của Lưu Niên ứng nghiệm.

Muốn phán đoán là lúc nào phát sinh, nhất định phải xem là cái Thiên Can 1 cung nào bị Hóa Kị xung tới để mà phán đoán thời kỳ ứng nghiệm, Thiên Can của cung khởi phi chính là “Thời Gian” ứng nghiệm.

"Thời gian của Ứng nghiệm" chính là lấy Thiên Can của cung nào đó trên lá số (mệnh bàn), kết hợp với Địa Chi của Lưu Niên mà tìm ra cái năm lưu niên ứng nghiệm sự kiện

Vì vậy, Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh Tứ Hóa áp dụng Lưu Niên (Lưu niên thái tuế) mà không cần Tiểu Hạn dựa vào sự kết hợp 12 Địa Chi trên mệnh bàn và Lưu Niên, khiến cho "Mệnh" cùng với "Thời" phối hợp. Mượn "Can" độn "Tinh" vay "Tượng" hợp "Chi" ứng "Thì". Còn như, ảnh tượng (hình ảnh) của sự việc và nguyên nhân của sự việc, thì lại từ: Sự trùng điệp cung vị và các hóa tinh tạo thành. Cũng chính là: có nguyên nhân và hình tượng, mới có thể miêu tả "Sự kiện" một cách cụ thể.

Đối với việc vận dụng:

Hình tượng của Sự kiện: Từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị, xác định ý nghĩa hình tượng của các Hóa tinh.

Nguyên nhân của Sự kiện: Từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị & đường bay đến của các Hóa tinh, tìm ra nguyên nhân đối ứng.


Khảo sát Thí dụ 1:
Giờ đưa ra một thí dụ đoán mệnh (mệnh lệ) để mà phân tích xem hình tượng của sự kiện & nguyên nhân sự kiện được tìm ra như thế nào ở trong 12 cung?



* Nguyên do:
Chủ nhân lá số này mở một cửa hàng bán tặng phẩm ở Nhật Bản, có việc muốn tìm Đại sư Tử Vi Đẩu Số chỉ điểm bến mê, đã hẹn được ngày gặp mặt. Vào 11h đêm cái hôm trước ngày hẹn, khi ngồi tàu điện trên đường về nhà từ cửa hàng bán tặng phẩm, liền thầm nghĩ: "Ngày mai phải đi bái kiến Đại sư, đầu tóc đã chừng mấy ngày chưa gội rồi. Không hay lắm!!! Dẫu ngay lập tức trở về tắm gội và chờ cho khô thì cũng đã khuya lắm rồi. Sáng sớm ngày mai phải chạy tới chỗ Đại sư. Có lẽ là sẽ ngủ không đủ giấc, hoặc là bị ngủ quên. Nếu như để sáng sớm mai mới tắm gội, chờ làm khô thì cũng bị trễ hẹn. Bằng không thì sẽ phải dậy từ rất sớm để chuẩn bị. Rốt cuộc cần phải làm sao đây?". Cứ trăn trở suy nghĩ về cái vấn đề này mãi.
Ngày hôm sau đến chỗ Đại sư, khi mở Mệnh bàn ra, chẳng hiểu sao mà câu nói đầu tiên của Đại sư lại hỏi ngay là: "Giờ Tý tối qua, có phải là vì chuyện đầu tóc mà khiến bạn hao tổn tâm trí hay không". Khiến cho chủ nhân lá số sợ ngây người, tại sao lại có thể nói trúng sự việc trong tâm tư của mình ở mấy canh giờ trước đây?!

* Vấn đề: Ở trong sự kiện này có mấy điều cần phải nghiên cứu
1, Lưu Nhật & Lưu Thời được vị Đại sư này khởi như thế nào? Một tháng có 30 ngày mà Mệnh bàn có 12 cung, mỗi 1 cung có thể có thể đại biểu 2 ngày hoặc 3 ngày. Ông ấy làm thế nào để từ trong đó mà tìm ra chính xác Nhật kỳ để khởi Lưu Thời nhỉ?
2, Tại sao là tóc nhỉ? Vì sao biết rõ chỉ là hao tổn tâm trí mà thôi?

* Phân tích: (trước tiên, mời các tự mình phân tích Mệnh bàn xem)
Giờ Tý ngày X tháng 12 năm 31 tuổi (năm Đinh Mão) vì việc đầu tóc mà phải hao tâm tổn trí. Đầu tiên: Chúng ta muốn định ra các cung vị Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời của Lưu Liên, căn cứ vào quy tắc tên gọi tương quan ghi vào các cung vị đã định ra.

Thiên can (Quý) của cung Phúc Đức ứng giờ Tý của Lưu Nhật (bên trong cung có Thái Dương và Thái Âm tọa thủ) khiến Tham Lang hóa Kị nhập cung Điền Trạch của Lưu Thời xung vào cung Phúc Đức của Lưu Nguyệt (bởi vì đã biết là sự việc phiền não, cho nên lấy cung Phúc Đức làm cung biểu lộ hình tượng); ăn khớp với điều kiện của đồng loại tương xung, cho nên có sự việc phiền lòng, quả không sai. Bởi vì can Quý khiến Tham Lang hóa Kị xung vào cung Phúc Đức của Lưu Nguyệt, mà sao Tham Lang lại là Quý thủy là nước bẩn, mà lại ở cung Điền Trạch, nên biết được chính là các loại nước như là nước tắm, nước giặt quần áo, tắm cơm canh,… Bởi vì mối liên hệ của Thái Dương và Thái Âm nên có thể dẫn tới rõ hơn là "Gội đầu". Cho nên thường là vì việc gội đầu mà phiền lòng.


Trở lại một vấn đề nữa: Cùng 1 Cung vị, có thể sẽ trùng điệp nhiều tầng (lần), ở trong tất cả thì rốt cuộc là cần phải rút ra tầng tầng nào để mà giải thích? Ở trong ví dụ này, chúng ta tìm xem canh giờ nào có sự phiền lòng, cho nên lấy cung Phúc Đức của Lưu Thời để phi Tứ Hóa, xem Hóa Kị có xung vào cung Phức Đức của Lưu Nhật hay không. Đó là lý do mà, cần nắm lấy mối quan hệ của "Cung vị trùng điệp" để giải thích "Hình tượng". Thí dụ này phải lấy mối quan hệ cung vị trùng điệp của Lưu Thời để giải thích, mà khi giải thích thì dựa vào cung Phúc Đức chính là cung khởi phi, là cung hỏi sự việc, cho nên dùng nó làm trọng điểm. Cung Điền Trạch chính là cung bay tới, là cung tiếp nhận Hóa tinh bay tới từ can cung hỏi sự việc. Chỉ có thể giúp cung khởi phi biểu lộ ra hình tượng của nó. Ảnh hưởng quan trọng nhất trong cung bay tới, là ở Hóa tinh nằm bên trong đó từ Can cung phi Tứ Hóa tới (giống vai trò của sao Tham Lang hóa thành Kị ở trong ví dụ này), nó tham khảo cung hỏi sự việc để tìm ra "Hình tượng" của sự việc chính.

Mối liên hệ của Thiên Địa Nhân bàn, cần phải phân tích các hạng mục:

1, Lá số gốc (bản Mệnh bàn) hóa cho Tứ Hóa của lá số Đại Hạn (Đại Hạn bàn), ở trong lá số của Đại Hạn thì hiển thị ra những loại quan hệ nào?

* Xung (sao Hóa Kị)
* Chiếu (sao Lộc, Quyền, Khoa)
* Hội (nhập)
* Hợp (tam hợp)

2. Lá số của Đại Hạn lại hóa cho Tứ Hóa của Lưu Niên dùng, xét các quan hệ dưới đây?

* Tam Hợp phương của lá số gốc (bản Mệnh bàn) có bị hoặc là Kị xung? hoặc là Kị nhập vào Mệnh gốc hay không?

* Tứ Hóa của lá số Đại Hạn và Tứ Hóa của lá số gốc, hiển thị ra loại quan hệ nào? Đặc biệt là sao Hóa Kị, có hiện ra sự đối xung hay không? Hoặc 2 ngôi Kị tinh đều vào trong cùng một cung?

3. Cung vị của lá số gốc & cung vị của lá số Đại Hạn hiển thị loại quan hệ nào?

Thí dụ như: Cung Tật Ách của lá số gốc chính là cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn, 2 cái trùng điệp cùng một chỗ, đây chính là cung vị trùng điệp, đại biểu tiền bạc của Đại Hạn có mối quan hệ với Tật Ách của Mệnh gốc. Mức độ mật thiết của sự liên hệ này thì dùng Tứ Hóa để kết hợp, các mục 1, 2 đã nói ở trên chính là sự suy xét mức độ mật thiết của sự kết hợp. Nếu như Tứ Hóa đều "Nhập" thì đại biểu sự kết hợp chặt chẽ, biết rất chăm chỉ nỗ lực đi kiếm tiền. Nếu như là "Xung" thì biểu thị không còn cách nào kết hợp, bác bỏ lẫn nhau, chính là lười nhác không cố gắng đi kiếm tiền.

4. Thời gian Ứng nghiệm? Hoặc kỳ hạn Ứng nghiệm?

* Cung bị Xung phải chịu tổn hại lớn nhất, khi Lưu Niên đi qua cung bị Xung thì sẽ bị hung.* Tam hợp Cục, lấy Quyền ở cung Quan Lộc của Lưu Niên là cát.

* Đồng loại không thể tương xung, như Tật Ách của Đại Hạn không thể xung Tật Ách của Mệnh gốc.

* Hóa nơi Mệnh gốc, ứng nghiệm ở Lưu Niên.* Hóa nơi Đại Hạn, ứng nghiệm ở Lưu Nguyệt.*

Đại Hạn xung Mệnh gốc, 10 năm không thuận lợi.

* Lưu Niên Kị xung, 1 năm hối hận.

Cùng cái lý ấy:
* 3 sao Hóa cát của Đại Hạn hội vào tam hợp Mệnh gốc, 10 năm cát tường.
* 3 sao Hóa cát của Lưu Niên hội vào, 1 năm thuận lợi may mắn.

Khảo sát Thí dụ 2:



Kết quả phát hiện được:
* Thiên Can cung Tật Ách của Đại Hạn khiến Hóa Kị xung tới cung Tật Ách của Mệnh gốc (phù hợp với cung đồng loại tương xung)
* Thiên Can cung Tật Ách của Mệnh gốc khiến Hóa Kị lại "Nhập" cung Tật Ách của Đại Hạn (biểu thị sự quan hệ chặt chẽ của 2 cung này), từ sự quan hệ chặt chẽ cho nên lực xung của cung Tật Ách của Mệnh gốc rất hung.

Trong ví dụ này, chính là cung Tật Ách của Đại Hạn làm Hóa Kị nhập vào cung Mệnh của Đại Hạn và đồng thời xung tới cung Thiên Di của Đại Hạn. Mà cung Thiên Di của Đại Hạn lại chính là cung Tật Ách của Mệnh gốc (lá số gốc), đại biểu cho bệnh tật của vận này và việc xuất ngoại có quan hệ. Do phải chịu Hóa Kị xung tới cho nên là hung họa. Vì vậy nên tiếp sau đó, khi giải thích về "Hình tượng" của tổ hợp các tinh tú, liền cần phải theo phương hướng này mà nắm lấy hình tượng đối ứng để giải thích.



Cho nên đương số này: Vì bị tai nạn xe cộ nên não chấn thương nghiêm trọng, thận và dạ dày cũng bị tổn thương do vụ va chạm. Bởi vì Văn Xương hóa Khoa của năm sinh bị Kị xung phá, khiến Khoa tinh mất đi tác dụng bảo vệ, thành ra gặp tai nạn trí mạng.

Tiếp tục, sẽ phải tìm ra "Thời gian" phát sinh. Trong những phân tích đã nói bên trên, chỉ biết là nằm trong 10 năm Đại Hạn ấy, sẽ có phát sinh tai nạn xe cộ nghiêm trọng. Mà 10 năm là một quãng thời gian khá dài, nên cũng không thể bảo người ta là trong 3650 ngày thì ngày nào cũng đều phải thấp thỏm đề phòng. Cho nên, từ trong lá số thì việc quan sát các mối quan hệ xung chiếu hội nhập của Tứ Hóa để tìm ra "Thời gian Phát sinh" là trình tự rất trọng yếu. Do thí dụ đoán mệnh này là thuộc về:

Tình huống mà cung Tật Ách của Đại Hạn làm Hóa Kị xung tới cung Tật Ách của Mệnh gốc (đồng loại tương xung). Cho nên, khi Lưu Niên đi tới năm Hợi của (đại) hạn cung Ngọ, thì Hóa Kị xuất ra từ Can cung Tật Ách của Đại Hạn vừa đúng chỗ cung Tật Ách của Lưu Niên, cho nên ở năm đó gặp chuyện không may.


CHƯƠNG 20: CÂN BẰNG CỦA MỆNH CỤC ĐẨU SỐ

Có 3 nhân tố tiêu chuẩn cơ bản được dùng để cân nhắc thăng bằng của Tử Vi Đẩu Số:

* Tổ hợp các Sao
* Tứ Hóa năm sinh
* Mối quan hệ xung chiếu hội nhập của Cách Cục trên lá số Gốc & lá số Đại Hạn.

1. Tổ hợp các sao

Một, trong cùng 1 cung có từ 2 sát tinh trở lên tụ tập, như đoạn nói về cung Phu Thê ở trên có song Sát xâm nhập đồng cung đã nói rõ.
Hai, sát tinh tuy chỉ có một ngôi, nhưng cùng với Chính tinh tạo thành cách cục ác liệt như các loại là: “Linh Xương Đà Vũ, hạn tới nhảy sông”, “Cự Hỏa Kình dương, cuối đời treo cổ”, “Thái Âm Hỏa Linh, phản thành thập ác”, “Xương Tham cư Mệnh, thịt nát xương tan”

Ba, những sao chậm trễ an nhàn, thì ưa được một sao có tính mạnh mẽ nhanh chóng để kích phát, chủ hăng hái có thành tựu. Nhưng mà có từ 2 sát tinh trở lên xâm nhập thì mất đi cân bằng mà đe dọa hung hiểm. Thí dụ như Thiên Đồng thủ Mệnh thì chủ lười biếng, thích hưởng thụ, nếu có Hỏa Tinh đồng cung sẽ kích phát ý chí phấn đấu, nhưng lại có thêm 1 sát tinh nữa xâm nhập thì sẽ trở thành dè dặt, do dự bất quyết, mà bỏ phí rất nhiều cơ hội.

Bốn, tổ hợp tinh tú của Đối Cung và Bản Cung, về cơ bản thì tổ hợp Chính Tinh của tinh hệ Tử Phủ là không thay đổi, còn tổ hợp của các Phụ tinh, Sát diệu thì khá biến động. Giả như có 2 sát tinh chia ra chiếm cứ ở Bản Cung & Đối Cung, thì sẽ sản sinh tác dụng và hiệu lực như dưới đây:

Kiềm chế lẫn nhau: lực lượng của 2 sát tinh kiềm chế lẫn nhau, khiến cho hung lực triệt tiêu, biểu hiện ở những người gặp được trong cuộc sống, rất ngang ngược nên phải tiêu hao rất nhiều tinh lực khắc phục sự phiền nhiễu. Tuy nhiên đều có thể đạt thành mục tiêu, nhưng đã sức cùng lực kiệt rồi, khiến cho thành tựu đạt được giảm đi không ít.

Nối giáo cho giặc: sự cấu kết với nhau của 2 sao đối lập, tăng mạnh ảnh hưởng lực của sát tinh, đối với Chính tinh của Bản cung sinh ra khuếch trương nguy hại hoặc xu hướng hư hỏng.


2. Tứ Hóa năm sinh

Tứ Hóa năm sinh rơi vào cung dựa theo tổ hợp của nó lại chia ra thành các tình huống: chỉ có 1 ngôi Hóa tinh rơi vào, hoặc 2 ngôi Hóa tinh trở lên rơi vào. 2 ngôi Hóa tinh trở lên rơi vào đồng cung thì e rằng sẽ quá vượng mà làm cho mất đi cân bằng, phản chuyển thành không luận là cát. Nói như thế nào đây? Các cung Tài Bạch và Quan Lộc mà có 2 ngôi Hóa tinh cát lợi rơi vào thì đương nhiên tốt, nhưng các cung vị như Tật Ách, Phu Thê lại không thể quá vượng, nếu như cung Tật Ách quá vượng sẽ chủ thân thể dễ có u bướu dài, mà cung Phu Thê quá vượng thì có ý nghĩa nhiều phối ngẫu. Cho nên, tổ hợp quá vượng cũng phải nhìn kỹ cung vị, giúp cho có được sự giải thích hợp lý, đây là 1 điểm khác để cân nhắc điểm thăng bằng.

3. Mối quan hệ xung chiếu hội nhập của cách cục lá số Gốc & lá số Đại Hạn

Trạng thái thăng bằng của hành vận lại cần phân định như thế nào đây? Đương nhiên là không nằm ngoài 2 yếu tố:
* Tổ hợp sao
* Tổ hợp Tứ Hóa

Tổ hợp sao thì như đã bàn ở phần trước, nhưng mối quan hệ của Tứ Hóa nhất định phải nghiên cứu các mối quan hệ tổ hợp của:
* Tứ Hóa ở các cung của Lá số Gốc
* Tứ Hóa ở các cung của Lá số Đại hạn

Mối quan hệ cân bằng của Hóa Kị trên lá số Gốc & Hóa Kị trên lá số Đại Hạn được định nghĩa như thế nào? Nhớ kỹ một số nguyên tắc căn bản dưới đây:

* Bất luận cung nào hóa Kị tới xung cung Mệnh cũng đều không tốt:
- Cung nào đó của Lá số gốc hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc,
- Cung nào đó của lá số Đại Hạn hóa Kị xung tới cung Mệnh của Đại Hạn, hoặc
- Cung nào đó của lá số Gốc hóa Kị xung tới cung Mệnh của Đại Hạn, hoặc
- Cung nào đó của Đại Hạn hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc,

Đều là xu hướng bất lợi, đại biểu cho mối quan hệ giữa cung Mệnh và cung nào đó, có xu hướng thoát ly, chia lìa, mất đi.

* Nếu như cung Mệnh hóa Kị xung 11 cung còn lại thì cũng là bất lợi:
- Cung Mệnh gốc hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Gốc, hoặc
- Cung Mệnh gốc hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Đại Hạn, hoặc
- Cung Mệnh của Đại Hạn hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Gốc, hoặc
- Cung Mệnh của Đại Hạn hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Đại Hạn,

Những cái này cũng là có xu hướng giải khai, chia lìa, thoát ra.




* Cung đồng loại của lá số Gốc không được hóa Kị xung cung đồng loại của lá số Đại Hạn

- Cung Mệnh của lá số Gốc hóa Kị xung cung Mệnh của lá số Đại Hạn,
- Cung Huynh Đệ của lá số Gốc hóa Kị xung cung Huynh Đệ của lá số Đại Hạn,
- Cung Phu Thê của lá số Gốc hóa Kị xung cung Phu Thê của lá số Đại Hạn,
- Cung Tử Tức của lá số Gốc hóa Kị xung cung Tử Tức của lá số Đại Hạn,
- Cung Tài Bạch của lá số Gốc hóa Kị xung cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn,
- Cung Tật Ách của lá số Gốc hóa Kị xung cung Tật Ách của lá số Đại Hạn,
- Cung Thiên Di của lá số Gốc hóa Kị xung cung Thiên Di của lá số Đại Hạn,
- Cung Nô Bộc của lá số Gốc hóa Kị xuug cung Nô Bộc của lá số Đại Hạn,
- Cung Quan Lộc của lá số Gốc hóa Kị xung cung Quan Lộc của lá số Đại Hạn,
- Cung Điền Trạch của lá số Gốc hóa Kị xung cung Điền Trạch của lá số Đại Hạn,
- Cung Phúc Đức của lá số Gốc hóa Kị xung cung Phúc Đức của lá số Đại Hạn,
- Cung Phụ Mẫu của lá số Gốc hóa Kị xung cung Phụ Mẫu của Đại Hạn,

Nếu có các tình huống kể trên, thì thì cái cung nhân sự ấy sẽ có phát sinh tình huống bất lợi, nếu là các cung lục thân mà nói thì phát sinh các sự việc ngoài ý muốn, ngã bệnh, tử vong,... nếu mà là các cung sự việc thì phát sinh các sự việc quan tụng, biến động, chuyển nhà, mất tiền,…

* Cung đồng loại của lá số Đại hạn cũng không được hóa Kị xung tơi cung đồng loại của lá số Gốc.

- Cung Mệnh của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Mệnh của lá số Gốc,
- Cung Huynh Đệ của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Huynh Đệ của lá số Gốc,
- Cung Phu Thê của lá số Đại Hạn hóa Kị xung Phu Thê của lá số Gốc,
- Cung Tử Tức của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Tử Tức của lá số Gốc,
- Cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Tài Bạch của lá số Gốc,
- Cung Tật Ách của Đại Hạn hóa Kị xung cung Tật Ách của lá số Gốc,
- Cung Thiên Di của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Thiên Di của lá số Gốc,
- Cung Nô Bộc của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Nô Bộc của lá số gốc,
- Cung Quan Lộc của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Quan Lộc của lá số Gốc,
- Cung Điền Trạch của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Điền Trạch của lá số Gốc,
- Cung Phúc Đức của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Phúc Đức của lá số Gốc,
- Cung Phụ Mẫu của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Phụ Mẫu của lá số Gốc.



Nếu có những tình huống kể trên, thì các cung đương sự sẽ phát sinh các tình huống bất lợi, nếu là các cung lục thân mà nói thì phát sinh các sự việc ngoài ý muốn, ngã bệnh, tử vong,... nếu mà là các cung sự việc thì phát sinh các sự việc quan tụng, biến động, chuyển nhà, mất tiền,…

Giả như một cung vị nào đó của lá số Gốc & lá số Đại Hạn đều xuất hiện một trong những tình huống kể trên thì cái cung vị đó nhất định sẽ sản sinh tai họa.


4. Ứng dụng Trong khi suy đoán:

* Trước tiên kiểm tra cách cục của lá số Gốc: Xem 1 cung nào đó khiến hóa Kị xung tới cung Mệnh của lá số Đại Hạn, có lúc xung tức là đại biểu cái cung ấy ở cái Đại Hạn ấy đã có tiềm ẩn cái nguyên nhân gây họa rồi. Trở lại kiểm tra cung đồng loại của Đại Hạn: Xem xem có hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc hoặc là cung đồng loại của nó trên lá số Gốc hay không. Nếu như mà có bị, thì chứng tỏ là các cung đồng loại ấy của lá số Gốc và của lá số Đại Hạn đã bị mất đi cân bằng. Vì vậy, nhất định sẽ gây hoạ, hình tượng hoặc tình cảnh của tai họa, lại cần dùng tổ hợp tinh tú ở cung đồng loại mà bị xung để làm biểu tượng của hình ảnh sự việc. Nếu như có các sát tinh hoặc Tứ Hóa năm sinh, ắt phải cân nhắc tăng giảm mức độ nghiêm trọng của nó.


CHƯƠNG 21: GIẢI LÁ SỐ NHƯ THẾ NÀO


Tinh túy của Tử Vi Đẩu Số có thể dùng 1 câu như sau để diễn đạt:
Tá Can độn Tinh, giả Tượng hợp Chi ứng Thì.
(Mượn "Can" độn "Sao", vay "Tượng" hợp "Chi" ứng "Thì").

Lúc suy đoán cát hung của Đại Hạn, phải đặt Mệnh Gốc ở vị trí thứ nhất. Chúng ta có thể ví von, Mệnh Gốc là nền móng của công trình, Đại Hạn thì là nhà cửa ở bên trên.


Yếu tố thứ hai của việc cân nhắc vận trình cát hung của Đại Hạn chính là tình hình phân bố của Tứ Hóa Đại Hạn. Quan sát xem bố cục hình thành của Tứ Hóa Đại Hạn bay vào các cung vị tại lá số của Đại Hạn và mối quan hệ của sự [Xung, Chiếu, Hội, Nhập] vào tam phương của cung Mệnh của Đại Hạn biểu thị thế nào? Và cả mối quan hệ của sự [Xung] hoặc [Chiếu] hoặc [Hội] hoặc [Nhập] với cách cục trên lá số Gốc. 

Sự lý giải của việc phối hợp ảnh hưởng [Anh chuyển nhà sẽ kiếm được tiền] hoặc [cưới chồng thì mẹ chồng sẽ chết trong vòng 3 tháng]. Trong những lý giải này, đem 2 cung vị của Tử Vi Đẩu Số: [Điền Trạch & Tài Bạch], [Phu Thê & Phúc Đức] kết hợp với nhau để đồng thời phân tích. Chính là sử dụng Can cung Điền Trạch phi Tứ Hóa tiến nhập cung Tài Bạch, đem quan hệ liên kết của hai cung tạo ra, rồi cân nhắc lý giải về trạng thái tổ hợp tinh diệu thu được.

Đương nhiên, việc xem kỹ mối quan hệ trùng điệp giữa một cung nào đó của Đại Hạn là loại cung nào của lá số Gốc thì cũng không được xem thường. Nếu như, cung Tài Bạch của Đại Hạn và cung Nô Bộc của lá số Gốc trùng điệp thì cát hung về tiền tài của Đại Hạn ấy sẽ có sự liên quan rất lớn đến bạn bè nô bộc. Đó chính là Phép xem (khán pháp) từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị giữa lá số Gốc và Đại Hạn để mà giải thích hình tượng sự vật.

Nhân đây, chúng ta sử dụng hình 1 để nói rõ, bởi vì cung Phu Thê có [Thiên Đồng, Thiên Lương Quyền, Thiên Hình, Đà La] tọa thủ, mà cung Mệnh Gốc làm Thiên Đồng hóa Kị nhập vào cung Phu Thê, cung Mệnh của Đại Hạn làm Thiên Lương hóa Lộc nhập vào cung Phu Thê, hình thành việc cung Phu Thê đồng thời tiếp nhận sự tiến đến bởi Hóa Lộc và Hóa Kị của 2 ngôi sao khác nhau do 2 cung vị khác nhau. Loại tình huống này khác với tình huống cùng là một ngôi sao vừa Hóa Lộc vừa Hóa Kị, có ý rằng [bản thân mâu thuẫn, nội tâm xung đột]. Bởi vì [Hóa tính] của 2 ngôi sao đều sẽ đồng thời tồn tại nguyên cớ ở cái cung vị ấy. Đây là hiện tượng không thể xem thường khi luận giải mệnh bàn.



Trong khi giải thích hình tượng Người – Việc – Nơi – Vật, cần phải cân nhắc sự khác nhau trong đó để mà thay đổi các loại hình tượng. Trong việc cân nhắc cần phải tham khảo ba điều dưới đây:

Thứ nhất, cung khởi phi và cung nhập vào.
Thứ hai, là sao nào tham gia Tứ Hóa.
Thứ ba, là tổ hợp tinh diệu.


CHƯƠNG 24: BÀN LUẬN VỀ THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM SỰ KIỆN

Muốn tìm ra chỗ biểu hiện về thời gian ứng nghiệm sự kiện trong mệnh bàn, cần phải áp dụng trình tự 3 bước, dùng hết thảy để tìm ra manh mối có tính liên quan trong đó, mới có thể nhận định thời gian phát sinh. Trình tự 3 bước được nói ở đây, chính là 3 lá số Thiên Địa Nhân bàn trong Đẩu Số.

Thí dụ như muốn suy đoán sự kiện phát sinh trong Lưu Niên, thì lấy Lá số Gốc là Thiên bàn, Lá số Đại Hạn là Địa bàn, Lá số Lưu Niên làm Nhân bàn. Rồi lại thông qua việc xâu chuỗi các tầng Tứ Hóa của Thiên Địa Nhân bàn gia tăng tác dụng. Hoặc các cát tinh từng tầng tăng mạnh, hoặc các hung tinh từng tầng phá hoại, sẽ khiến cho sự kiện phát sinh ở trong Lưu Niên.

Tương tự, muốn suy đoán sự kiên phát sinh trong Lưu Nguyệt, thì lấy Lá số Đại Hạn là Thiên bàn, Lá số Lưu Niên là Địa bàn, Lá số Lưu Nguyệt là Nhân bàn. Dựa vào sự tăng cường trùng lặp của Tứ Hóa và sát tinh, tích lũy ảnh hưởng, khiến cho sự kiện lộ tượng thành hình.

Thứ nhất, Đồng loại tương Xung: Bất kể là cung Đồng loại của Thiên Bàn hóa Kị xung Địa Bàn, hoặc Địa Bàn hóa Kị xung Thiên Bàn, đều thuộc dạng Xung cùng loại. Lấy thời điểm khi mà xung tới cung Đồng loại của Nhân Bàn là năm ứng nghiệm. Thí dụ như: cung Tài Bạch của Đại Hạn hóa Kị xung cung Tài Bạch gốc, chính là Đồng loại tương xung của Tài Bạch, lúc Lưu Niên đi tới cung Thiên Di gốc, Kị tinh của cung Tài Bạch Đại Hạn hóa tới, vừa khớp vào trong cung Tài Bạch của Lưu Niên, cho nên Lưu Niên ấy ứng nghiệm. Đương nhiên là nếu như kết cấu cung Tài Bạch của Lưu Niên khác không có được cát lợi thì cũng có thể phát sinh sự bất lợi về quản lý tài chính ở tại Lưu Niên đó.

Thứ hai, khi Xung cung Mệnh: cung Mệnh là chủ soái, bất luận là cung vị gì cũng không nên hóa Kị xung tới cung Mệnh. Nếu có sự xung đến thì có ý nghĩa của sự thất thoát, cởi bỏ. Tới lúc Lưu Niên đi qua đúng vị trí thụ nhận sự tương Xung thì phải cẩn thận, sẽ bị mất đi [Người / Sự Việc / Vật] được đại biểu bởi cái cung vị mà đến xung đó. Ví dụ như: cung Phụ Mẫu hóa Kị tới xung cung Mệnh, thì có thể mất đi cha mẹ, khi nghiêm trọng thì chính là điềm báo cha mẹ dễ bị tử vong.

Thứ ba, Hỗ xung Kị: cung nào đó trên lá số Gốc hóa Kị nhập cung A, mà cung nào đó trên lá số của Đại Hạn hóa Kị tại đối cung của cung A. Tức là cùng với chỗ sở hóa Kị trên lá số Gốc hiện ra trạng thái đối xung. Đây chính là Hỗ xung Kị. Tới lúc Lưu Niên đi tới trục Hỗ xung Kị thì sẽ phát sinh

Thứ tư, Trùng điệp Kị: cung nào đó trên lá số Gốc hóa Kị và cung nào đó trên lá số Đại Hạn hóa Kị đều tiến vào cùng một cung, ở trong cái cung vị này liền có lực ảnh hưởng của Hóa Kị kép, khi Lưu Niên đi vào đối cung hoặc trong cung Trùng điệp Kị, đều sẽ phát sinh sự cố.

Thứ năm, Tam hợp Kị: cung nào đó trên lá số Gốc và lá số Đại Hạn hóa Kị mà hình thành góc độ Tam hợp. Cái được gọi là Tam Hợp chính là [Hợi Mão Mùi], [Thân Tý Thìn], [Dần Ngọ Tuất], [Tị Dậu Sửu]. Ví dụ như: lá số Gốc hóa Kị tại Tý, lá số Đại Hạn hóa Kị ở Thân, liền cấu thành Tam hợp Kị của [Thân Tý Thìn], lúc Lưu Niên đi vào cung Thìn thì sẽ phát sinh tổn thất, tai họa.

Thứ sáu, Phản đạn Kị: lá số Gốc hóa Kị xung lá số Đại Hạn, rồi lá số Đại Hạn hóa Kị xung lá số Gốc. Cái kiểu hiện tượng của Ngươi xung Ta, Ta xung Ngươi, như thế này chính là Phản đạn Kị, bị xung tới chắc chắn có tai ương, là hiện tượng Kị xung rất hung ác.

Thử bảy, Kị nhập Đồng loại: có người nói Kị Nhập chủ thu liễm, có nghĩa là đạt được, không chủ hung hiểm. Câu này có chút phiến diện. Nó cần có một vài điều kiện tiên quyết, nếu như có một vài điều kiện này thì nó mới có thể như câu nói trên. Nếu không có sự phối hợp của các điều kiện tiên quyết thì cũng là bất lợi, đặc biệt là đi qua chỗ Kị xung sẽ rất không được thuận lợi, sau khi trải qua Lưu Niên ấy mới có thể khổ tận cam lai, chuyển nguy thành an.

Thứ tám, Đơn Kị: sao Hóa Kị của lá số Gốc và lá số Đại Hạn phi hóa nhưng không tạo thành các tổ hợp như trên, chính là Đơn Kị. Tình huống Đơn Kị mà cần phải đặc biệt chú ý là lúc sao Hóa Kị của lá số Gốc và lá số Đại Hạn chia nhau ra chiếm cứ cung Mệnh của Lưu Niên và cung đồng loại của Lưu Niên, hung lực của những chỗ này sinh ra cũng không thua kém so với các trường hợp kể trên.

Phối hợp mối quan hệ của Địa Bàn phi Tứ Hóa với Thiên Bàn, Nhân Bàn, bổ chính cho sự xác định thời gian ứng nghiệm. Việc quyết định thời gian ứng nghiệm có quy tắc dưới đây có thể tự tham khảo:

Thứ nhất, lấy cung bị xung hung nhất, đem Địa Bàn chuyển động, lúc đi qua cung có Kị xung là sẽ xảy ra sự kiện.

Thứ hai, lúc tổ hợp tinh tú trong cung đồng loại của Địa Bàn cực kỳ tồi tệ, lại xem xét cân nhắc tổ hợp sao Hóa Kị của Thiên Bàn, Địa Bàn. Nếu như là lại còn bị Kị xung, ắt là ứng nghiệm ở Địa Bàn đó.

Thứ ba, lúc đi qua cung nhập vào của sao Hóa Kị ở Thiên Bàn, cũng có thể phát sinh sự kiện. Lúc này, trước hết cần phải từ bắt đầu điều tra theo năm của số tuổi Đại Hạn để tra. Nếu năm Lưu Niên đầu tiên ấy đi vào cung khởi phi của sao Hóa Kị trên Thiên Bàn nhưng chưa đi tới cung bị xung, thì phải chú ý đến năm Lưu Niên của cung khởi phi; nếu năm đầu tiên ấy đi đến cung bị xung thì phải chú ý đến năm Lưu Niên của cung bị xung, có thể sẽ là năm xảy ra ứng nghiệm.

Thứ tư, lúc sao Hóa Kị xung cung Quan Lộc của Nhân Bàn. Bởi vì sự nghiệp chủ về tình trạng vận đồ, nếu như sao Hóa Kị xung Quan Lộc thì sẽ không được thuận lợi, hiện tượng của sự cản trở. Lại phối hợp trạng thái tổ hợp sao Hóa Kị của Thiên Bàn, Địa Bàn, nếu mà không tốt thì ắt là lúc Nhân Bàn ứng nghiệm.

Thứ năm, nếu là tình huống của Đơn Kị thì cần phải chú ý lúc Nhân Bàn đi vào cung vị đối xung với cung vị nhập vào của Hóa Kị trên Thiên Bàn, biểu thị đã dẫm phải hung lực sao Hóa Kị (giống như dẫm phải quả mìn, dẫm ở trạng thái bất động thì không ảnh hưởng gì, nếu như lại có Kị tới xung, không thể không động, sẽ bị nổ tung), nếu cung đồng loại của Nhân Bàn lại có tổ hợp không cát, thì sẽ phát tác sự kiện không may mắn.



CHƯƠNG 25: GIẢI VÍ DỤ VẬN DỤNG LINH HOẠT TỨ HÓA PHI TINH


Thứ nhất, giải thích quy tắc lý lẽ Tứ Hóa tới cung:
Lá số bày ra có cả thảy 12 cung, có sự khác biệt về tính chất âm dương của các cung:
Cung Dương: Mệnh, Phu Thê, Tài Bạch, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức.
Cung Âm: Huynh Đệ, Tử Tức, Tật Ách, Nô Bộc, Điền Trạch, Phụ Mẫu.

6 cung Dương chủ Quý, 6 cung Âm chủ Phú, do đó 6 cung Dương mà có kết cấu cát lợi đều thuộc vào Quý cách, mà 6 cung Âm có kết cấu tốt thì ắt là mệnh giàu có.

1, Cung Mệnh: Đại biểu cho sự cao thấp về mệnh cách của 1 cá nhân.
Lấy Can cung Mệnh gốc phi Tứ Hóa, mà Lộc, Quyền, Khoa nhập vào Tam phương của cung Mệnh gốc thì là Quý cách, chủ tự lực cánh sinh. Nếu rơi vào đối cung của Tam phương (Phu Thê, Thiên Di, Phúc Đức) là chiếu Mệnh, cũng là Quý cách, có thể có được sự trợ giúp của người khác mà thành công.

Hóa Kị nhập Tam phương của cung Mệnh gốc, là tọa Kị, hung lực tương đối kém, thành công nhiều trở ngại, nhất định phải dựa vào sự chăm chỉ trong công tác, làm việc đến nơi đến chốn mà thành công, cũng tức là không có vận khí hoạnh phát của cải.

Nếu Hóa Kị xung Tam hợp, thì cuộc đời tương đối thất thế, trong tốt có xấu, thành bại bất định. Cho nên Kị xung Tam hợp thì nên đi làm, lĩnh lương hàng tháng. Nếu không cam phận, tự lập gây dựng sự nghiệp, hơn phân nửa là thần tài qua cửa, nếu có thành công quá trình tràn ngập gian khổ, gặp lúc vận đồ suy bại thì thất bại cũng cấp tốc mà mãnh liệt.

2, Cung Tài Bạch: Đại biểu cho năng lực kiếm tiền; hoặc kiếm được tiền qua nghề gì.
Phàm là cung Tài Bạch hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa nhập vào Tam phương của cung Mệnh gốc, biểu thị có năng lực đủ tự lập mưu sinh, sẵn có năng lực ưu tú về quản lý tài sản, cho nên tương đối dễ làm giàu.

Nếu chiếu Tam hợp của Mệnh gốc, cũng là cách tự lập, chẳng qua người có dạng chiếu Tam phương khéo ở chỗ vận dụng thành công sự trợ lực từ xung quanh; còn người có dạng nhập Tam hợp, là thông qua nỗ lực của bản thân mà thành công, hai dạng có chút khác nhau.

Hóa Kị không nên xung Tam hợp của Mệnh gốc, có xung thì hung, thích hợp đi làm, không thích hợp gây dựng sự nghiệp, rơi vào Tam hợp của Mệnh gốc thì cát lợi, đối với cách vận dụng tiền bạc hoặc đầu tư tương đối cẩn thận hoặc tiết kiệm.

3, Cung Quan Lộc: Đại biểu cho sự nghiệp, vận đồ, còn gọi là cung học nghiệp.
Lộc, Quyền, Khoa nhập Tam hợp của Mệnh gốc là cách độc lập tự chủ, lý tưởng cao xa, có cơ hội thành công. Cát lực của nhập Tam hợp trội hơn so với chiếu Tam hợp, chủ sự nghiệp thuận lợi, cũng có nhiều phương diện phát triển, thành tựu lớn.

Chiếu Tam hợp biểu thị hoàn cảnh bên ngoài tốt, thời cơ đối với ta có lợi nhưng mình có năng lực nắm bắt hay không, hoặc có ý nguyện tự mình tham dự hay không, thường thường bị quản chế bởi tại các nhân tố khác của bản thân. Ví dụ như: có người rất được thượng cấp trọng dụng, nhưng khi sắp xếp chức vụ thì tính chất công việc lại không được như anh ta mong muốn, mặc dù trong mắt người khác anh ta rất may mắn, nhưng tâm tình của đương sự có chỗ khổ khó nói, hoặc ý nguyện bản thân không như vậy.

Hóa Kị thích hợp nhập vào Tam hợp, biểu lộ trong lòng vô cùng quan tâm đến tiền tài, sự nghiệp. Nếu hành vận cát lợi thì có cơ hội thành công nhưng khá chật vật, trong quá trình khá nhiều trở ngại nhưng đều không ảnh hưởng tới thành tựu.

Nếu Hóa Kị xung Tam hợp, nhất định bất lợi ở trong sự nghiệp, công việc nhiều biến động, kẻ đi làm hay thay đổi đổi công việc, hoặc hoàn cảnh công tác tương đối kém, hoặc không hứng thú nhưng lại phải tiếp nhận cái công việc ấy. Cũng có dấu hiệu khó thăng chức, bởi vậy nên giữ thái độ thận trọng, khi vận đồ chuyển sang tốt thì mới thực hiện kế hoạch.

4, Cung Lục thân: Mệnh, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Nô, Phụ Mẫu là các cung lục thân.
Phàm cung lục thân hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa nhập hoặc chiếu Tam hợp của Mệnh gốc, chính là chủ có tình nghĩa, ăn ở hòa thuận.

Hóa Kị không nên tới Xung, nếu Hóa Kị tới xung thì vô duyên với lục thân (được chủ bởi cung đó), ngăn cách sâu rộng, ý kiến không hợp, tư tưởng bất đồng, thường sinh cãi vã.

Nếu phi hóa kỵ nhập Tam hợp của mệnh, thì hung lực tương đối kém, đại biểu quan tâm lục thân nhưng bởi vì nguyên nhân không có cách nào biểu thị tâm ý bằng vật chất, chỉ có quan tâm tinh thần mà thôi.

5, Cung Phúc Đức: Đại biểu cho năng lực hưởng thụ, có thể gọi là cung vận lúc về già, lại cũng có thể nói là cung tổ tiên ông bà. Bình thường khi luận mệnh thì dùng làm cung hưởng thụ của bản thân, có thể quan sát một cá nhân có thể hưởng phúc hay không. Có vài người rất nhiều tiền nhưng bận rộn công tác chẳng được hưởng thụ, lại cũng có người chẳng giàu có gì nhưng rất thỏa mãn mà sống vui vẻ hạnh phúc. Sự khác biệt giữa hai kiểu người ấy, chính là ở tại cung Phúc Đức.

Tam hóa cát tinh của (can) cung Phúc Đức nhập Tam hợp của Mệnh gốc, chủ vận về già tốt đẹp, có thể hưởng phúc, bản thân có thể được bề trên che chở, cũng tương đối có phúc để hưởng hoặc tương đối có thể hưởng phúc. Tam hợp chiếu cũng chủ người có thể hưởng phúc.

Hóa Kị (của can cung Phúc) nhập Tam phương của Mệnh gốc, không hề hung, chủ về muốn hưởng phúc nhất định phải nỗ lực làm việc, kiếm tiền để tiêu xài, là thuộc dạng người lao lực thân thể nhưng tinh thần tương đối đơn giản, không ôm đồm.

Nếu xung Tam phương, thì nhất định là không có phúc để hưởng, hoặc là người không có tiền để hưởng phúc. Cảnh già cô độc, phải tự chăm sóc chính mình, tốt nhất là dựa vào tôn giáo sớm một chút, cầu tâm linh siêu thoát khỏi ràng buộc của thế tục, để tránh gặp lại sát tinh xung kích, thấy cũng không phát động (sát tính).

6, Cung Điền Trạch: chủ nắm vận nhà, còn gọi là cung bất động sản.
Kiếm tiền đem về nhà cất giữ, cho nên còn gọi là Tài Khố (kho tiền). Nếu cung Điền Trạch bị phá thì kho của cải bị nứt thủng, chuột liền tới trộm mất của, dẫu cung Tài Bạch tốt cũng không cách nào cất giữ được, cái ông Thần Tài chỉ cho mượn tiền để ngắm chút mà thôi. Cho nên, cung Điền Trạch là cung vị vô cùng trọng yếu.

Cung Điền Trạch không nên có sao Hóa Kị tới xung, xung thì kho bị phá, rò rỉ mất tiền mãi không ngưng.

Tam hóa cát tinh của cung Điền Trạch nhập Tam hợp của Mệnh gốc, thì gia vận sẽ được cát tường, giữ được tiền tài.

Phi Kị của cung Điền Trạch hóa ra không được xung Tam hợp của Mệnh, nếu không sẽ dễ bất ngờ gặp phải chuyện ngoài ý muốn, hoặc điền trạch có biến động.

7, Cung Tật Ách: chính là cung thân thể, còn được gọi là cung tướng mạo, chủ về tình hình sức khỏe.
Tứ hóa tinh của cung Tật Ách nhập tam phương của Mệnh gốc thì khá cát tường.

Sao Hóa Kị không được xung Tam hợp của Mệnh gốc, có xung thì thân thể gặp nạn, dùng tiền để chữa bệnh hoặc bởi vì tật bệnh mà chểnh mảng về công việc sự nghiệp, khiến tình trạng kinh doanh không tốt.

Người già kiêng bị Lộc, Kị của cung Tật Ách xung cung Mệnh gốc hoặc xung cung Tật Ách gốc, nếu không thì sẽ hung hiểm, bởi vì Hóa Lộc có nghĩa là "Nhiều", dễ có các loại bệnh trạng như phát sinh các tổ chức dị thường hoặc chứng cao huyết áp. Cho nên cung Tật Ách người lớn tuổi không thích thấy hóa lộc hoặc bị hóa kị tới xung chiếu, phi hóa kỵ nhập Tật Ách cũng luận như vậy.


Thứ hai, hàm nghĩa của các Hóa tinh theo 10 Thiên can.
1, Can Giáp:
Liêm Trinh hóa Lộc: Thăng chức, tốt cho chuyện kinh doanh đồ điện khí, ở tại các nơi Tứ Mã địa, tốt cho buôn bán xuất khẩu, thích hợp nhân viên công vụ.
Phá Quân hóa Quyền: Vận xuất ngoại mạnh mẽ, có hiện tượng hoạnh phát, giữa vợ chồng bạn bè có nhiều tranh chấp, con cái không nghe lời, rất có chủ kiến, thành tựu cũng không kém, nhưng tính phản trắc lớn.
Vũ Khúc hóa Khoa: Đi làm công việc ổn định trong giới tài chính ngân hàng; thông thường tài vụ cũng không tệ lắm, không có cảm giác giật gấu vá vai.
Thái Dương hóa Kị: Bất lợi cho lục thân là nam giới, mắt, đầu dễ có tật đau nhức, mất ngủ, nôn nóng, cùng Thiên Hình đồng cung dễ có tai họa quan tụng, lao ngục. Người chưa lập gia đình thì dễ thất tình, dù là Dịch Mã động nhưng xuất ngoại không được thuận. Người sinh ban đêm càng bất lợi, bất kể đối với mình hoặc chồng, con trai, đều có khiếm khuyết ở trên người hoặc phát sinh tình huống bất lợi.

2, Can Ất:
Thiên Cơ hóa Lộc: Anh em giỏi, giỏi kỹ thuật, tiền bạc ổn định, đa phần không thuộc về dạng hoạnh tài, nhiều kế hoạch dễ thành công. Lấy trí tuệ để sinh tài. Sắm thêm đồ cơ khí.
Thiên Lương hóa Quyền: Khăng khăng cố chấp, thích hợp với Quan toà, luật sư, nhân viên điều tra, bác sĩ / thầy thuốc, nhân viên chính phủ làm quan thanh hiển, có thành tựu, có được nhân duyên.
Tử Vi hóa Khoa: trọng thể diện, có quý nhân bồi dưỡng, không hội cát tinh, một trong Tứ Sát đồng cung, thì dễ gặp khó khăn, mọi việc dây dưa mãi.
Thái Âm hóa Kị: Bất lợi cho lục thân là nữ giới, người chưa lập gia đình thì dễ thất tình, gia vận có biến, chú ý bị thương ở đầu và con mắt, đặc biệt người sinh vào đầu tháng, cuối tháng, ban ngày cực kỳ bất lợi, đối với vợ, con gái cũng sẽ có xảy ra sự tình bất lợi, nhưng không có cách nào để rõ ràng xem là bất lợi việc gì.

3, Can Bính:
Thiên Đồng hóa Lộc: Nghề phục vụ, nghề nhà hàng ăn uống tốt đẹp, không làm nhiều mà được thu hoạch, làm nhân viên công vụ cũng tốt đẹp.
Thiên Cơ hóa Quyền: Có biến động dễ lên chức, chủ động, cơ trí, sự nghiệp nhiều thay đổi, tăng cường lực thực hành.
Văn Xương hóa Khoa: Đi vào giới văn nghệ phát triển năng lực mà thành danh, văn chương lừng danh, có lợi trong việc đọc sách thi cử cho học tập.
Liêm Trinh hóa Kị: Quan tụng thị phi, bệnh hoa liễu, viêm nhiễm máu mủ, tranh chấp do chuyện đào hoa, cùng Thất Sát Kình Dương đồng cung ở cung Thiên Di xung cung Mệnh sẽ phát sinh tai nạn xe cộ, thêm sao Hóa Kị lại thêm ứng nghiệm.

4, Can Đinh:
Thái Âm hóa Lộc: Nữ giới tốt về tài lộc, vận điền trạch tốt đẹp, có lợi ở trong buôn bán bất động sản hoặc vật phẩm chuyên dụng cho phái nữ.
Thiên Đồng hóa Quyền: Đem sự lười nhác của Thiên Đồng chuyển hóa thành tích cực, thích hợp các nghề nghiệp phục vụ, ăn uống, quần áo trang sức, hùn vốn chung cũng hợp.
Thiên Cơ hóa Khoa: được tài chính bình ổn chứ không nhiều, quan hệ bạn bè không tệ, khó xảy ra chuyện tranh chấp tài chính với bạn bè.
Cự Môn hóa Kị: Nhiều khẩu thiệt thị phi, ngôn từ không thích đáng dẫn đến họa, biểu đạt không tốt, coi chừng âm miếu, bùa chú, mất trộm. Từng có bằng hữu đã nói một câu "Ngươi cẩn thận cho ta một chút!" kết quả chọc quan tòa, tội danh là đe dọa. Kỳ thực chỉ là nói gắt gỏng một chút mà thôi, trên mệnh bàn của anh ta thì có Cự Môn hóa Kị, mà lại đúng lúc vận đồ đi tới vị trí sao này. Bạn nào có sao này, tốt nhất là nên thận trọng mồm miệng.

5, Can Mậu:
Tham Lang hóa Lộc: Có nhậu nhẹt; kiếm tiền tốt từ nghệ thuật; cùng Vũ Khúc hội hợp thì hoạnh phát của cải; nhân duyên tốt, nữ tính rất thích cũng rất giỏi làm nũng.
Thái Âm hóa Quyền: Nữ giới có năng lực mạnh hơn đàn ông, nam nhân động tác phái nữ như nam giới cá tính lại mạnh, có lợi tại bất động sản hoặc gia vận.
Hữu Bật hóa Khoa: Nhiều quý nhân, chú ý tình cảm phức tạp, có lòng cầu tiến có được danh lợi.
Thiên Cơ hóa Kị: Bất lợi cho người thân ngang hàng thuộc phái nam, bị thương ở tay chân, để tâm vào chuyện vụn vặt luẩn quẩn trong lòng, xe cộ hoặc máy móc đè bị thương, có sao Hóa Kị loại này đại đa số sẽ bị tình trạng tay chân lưu lại dấu vết.

6, Can Kỷ:
Vũ Khúc hóa Lộc: gặp bộ Vũ Tham hội hợp thì giỏi buôn bán; chủ hoạnh phát, năng lực quản lý tài sản mạnh, giỏi tích lũy.
Tham Lang hóa Quyền: Lòng hiếu thắng mạnh, cá tính gấp gáp, thực dụng, tính ghen tuông mạnh, không giỏi lập kế hoạch, dũng cảm xung phong phá trận.
Thiên Lương hóa Khoa: Lợi cho thi cử, nghành y, công chức, bình ổn mà thăng tiến.
Văn Khúc hóa Kị: Tranh chấp giấy tờ, có đánh bạc ắt thua, bất lợi cho sự nghiệp, thần kinh có bệnh, tai nạn xe cộ, cẩn thận trong việc nhận khế ước, chi phiếu, công văn trao tay bởi vì thủ tục không được đầy đủ mà khơi dậy mầm mống tai vạ.

7, Can Canh:
Thái Dương hóa Lộc: Có tiền từ bôn ba bận rộn nhưng chưa chắc có thể giữ được bởi vì nguyên nhân phóng khoáng hào sảng; nữ mệnh có cốt cách rất nam nhi, chưa chắc lớn lên ngoại hình xinh đẹp, nhưng có thể tìm được người chồng tốt, so với nữ mệnh có Thái Dương hóa Kị thì tốt hơn rất nhiều, cung Tử Tức cũng luận như vậy.
Vũ Khúc hóa Quyền: sử dụng tiền tài linh hoạt, chủ nắm đại quyền về tài chính, nhưng không nhất thiết là tiền của chính mình, có thể là quản lý ngân hàng hoặc quản lý công ty tài chính. Cùng Văn Khúc đồng cung, văn võ toàn tài, nhưng cô độc, kết hôn tương đối muộn.
Thái Âm hóa Khoa: Nổi danh trong giới nghệ thuật, gia vận bình ổn hài hòa, chú ý bị thương bởi dao kéo, nếu dùng dao kéo thì dễ có dấu hiệu đổ máu.
Thiên Đồng hóa Kị: Giữ được tiền tài mà không tốn sức, có nốt ruồi kín, đau đầu, ngực có khí ứ đọng không tiêu tan, hậm hực bất đắc chí, có điều khó nói.

8, Can Tân:
Cự Môn hóa Lộc: Khéo miệng để kiếm tiền, nhiều tiền nhiều thị phi, khả năng ăn nói giỏi, phản ứng mạnh mẽ, có sức thuyết phục, ưa gặp Thái Dương vượng địa hoặc Lộc Tồn tới chế hóa tính thị phi, chủ phúc hậu, thích hợp lấy miệng làm chủ trong hành động.
Thái Dương hóa Quyền: sao chủ quan lộc hóa Quyền thì chủ vất vả cực nhọc càng tăng sự tài giỏi, bôn ba, lao lực, dịch mã động mạnh thì có cơ hội xuất ngoại du lịch, ở cung Ngọ bất lợi, dễ bảo thủ, tính chủ quan quá mạnh, có cát tinh giúp đỡ thì cát lợi.
Văn Khúc hóa khoa: Thích hợp hướng phát triển trong giới văn nghệ, nhưng thiên hướng ở tại Ngũ thuật (QNB chú: tức Mệnh, Tướng, Bốc, Y, Sơn), nghệ thuật thuộc loại bàng môn tà đạo, học sinh lợi cho thi cử, học tập chuyên tâm.
Văn Xương hóa Kị: phải cẩn thận kẻo Lôi thôi về giấy tờ, ký hợp đồng, thư xác nhận, thư bảo đảm, dễ nhận ngân phiếu khống, học sinh học tập không được chuyên tâm, việc học hành kém, gián đoạn; ở tại Tật ách, huyết quản có tật, Văn Khúc hóa kị cũng như vậy.

9, Can Nhâm:
Thiên Lương hóa Lộc: Thông minh, nhân duyên tốt, được sự che chở của bậc trưởng bối, ở tại Tài Bạch kiếm tiền từ việc đầu cơ, không làm mà có tiền, thu nhận tiền biếu tặng dễ sinh chuyện.
Tử Vi hóa Quyền: Chủ quan chức, tự cho mình là đúng, bảo thủ, ưa gặp cát tinh phụ tá, chủ đại phú đại quý, được người khác tôn sùng, nắm quyền thế, có uy.
Tả Phụ hóa Khoa: Chủ công danh, danh lợi song thu, có lòng cầu tiến, dễ có chuyện phức tạp trong tình cảm.
Vũ Khúc hóa Kị: Bất lợi cho tiền tài, quay vòng khó khăn, cùng Thiên Hình đồng cung, vì tiền tài mà phạm pháp; cùng Kình Dương đồng cung, vì tiền tài mà động đao kiếm, nếu cùng Thất Sát đồng cung lại thêm ứng nghiệm, cũng có thể ám chỉ thân thể gặp phải hình thương.

10, Can Quý:
Phá Quân hóa lộc: Tiền do cầm cố, vay mượn, không phải là tiền của mình, thịnh vượng trong buôn bán, ở cung phu thê chủ gương vỡ lại lành. Lợi cho người làm nghề vận tải, đi thuyền, buôn bán.
Cự Môn hóa Quyền: Ăn nói sắc bén, năng lực ngôn ngữ tốt, lời nói có uy, năng lực thuyết phục tốt, quan chức dễ lên chức nhưng phòng khẩu thiệt thị phi, tốt nhất cho: Nhân viên nghiệp vụ, hành chính, giáo viên.
Thái Âm hóa Khoa: Chủ đào hoa, bởi vì đào hoa mà sinh họa, loại đào hoa này là do khác giới chủ động, những cái khác cũng giống như can Canh Thái Âm hóa khoa.
Tham Lang hóa Kị: Bởi vì tình dục mà gây rủi ro, hoặc khiến cho dính dáng đến kiện tụng, chú ý: Sắc dục, ăn uống và các phương diện ham muốn khác, để tránh thân thể khỏi bị hao tổn hoặc rủi ro dẫn đến kiện tụng. Xuất hiện rất nhiều loại hiện tượng có tiên nhân múa hát, tắm giặt, tình dục, giết chóc,… nhưng đều là tình cảm bất chính, quan hệ không dứt ra được, thích hợp: buôn bán thiên môn, buôn bán tiền mặt.


Thứ ba, giải thích nguyên tắc sử dụng Tứ Hóa của Đại Hạn:
Căn cứ vào thuyết Thiên Địa Nhân: tại Thiên gieo tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự. Đó là 3 bước trong quá trình luận mệnh.

Nếu suy tính "Sự kiện" trong Lưu Niên thì lá số Gốc chính là "Thiên Bàn", lá số Đại Hạn chính là "Địa Bàn", lá số Lưu Niên chính là "Nhân Bàn".

"Dụng" xung "Thể", tai họa to lớn, 10 năm Đại Hạn bất lợi
"Thể" xung "Dụng", tai hoạ khá nhẹ, 1 năm Lưu Niên bị xung bất lợi.



Thứ tư, giải thích cách sử dụng linh hoạt Tứ Hóa phi tinh:

Bây giờ cử ra một ví dụ nói rõ quan hệ của "Thể" và "Dụng", quan hệ suy lý của tam bàn (3 tầng lá số): Bản Mệnh (lá số Gốc), Đại Hạn, Lưu Niên.


                                                                           Hình 1: Lá số Gốc


Vị tiên sinh này từng là đại phú ông một thời oai phong, tại năm Giáp Tý bắt đầu đổ vỡ, xảy ra mà không thể cứu vãn. Kết quả ở năm Ất Sửu vì có viết chi phiếu khống, trong tháng Giêng vì làm trái pháp luật về ngân phiếu nên bị bắt bỏ tù, trong chớp mắt vinh hoa phú quý ngày xưa đã thành quá khứ, chúng ta đi xem xét mệnh bàn biểu hiện và suy lý như thế nào:

Lá số Gốc:
Từ trên cách cục, có thể nhìn thấy đó là cách "Tử Phủ triều viên", dựa vào mệnh cách để giải thích: Trong cuộc đời thường qua lại với những người có thành tựu trong giới chính trị, quân cảnh, thương nghiệp, đồng thời có được sự trợ giúp của bọn họ mà thành công, cung Nô Bộc có sao Hóa Quyền càng làm mạnh thêm khuynh hướng này.

Cung Quan Lộc gốc: Ở tại cung Quý Tị, khiến Tham Lang hóa Kị bị Hóa Kị năm sinh (Liêm Trinh kị) ở đối cung (cung Phu Thê) bắn về, chính là một kết cấu Nghịch Thủy Kị tiêu chuẩn, chẳng trách có thể trở thành một ông chủ đại xí nghiệp.

Cung Tài Bạch gốc: Ở tại Đinh Dậu, khiến Cự Môn hóa Kị tại cung Tý (cung Huynh Đệ).

Cung Tật Ách gốc: Ở tại Bính Thân, khiến Liêm Trinh hóa Kị ở cung Hợi (cung Phu Thê).

Khi mà Đại Hạn đi tới cung Nhâm Thìn, thì cung Tý trở thành cung Tài Bạch của Đại Hạn, cung Hợi biến thành cung Tật Ách của Đại Hạn, đã biểu hiện rằng ngoài chuyện tiền tài của Đại Hạn Nhâm Thìn có chuyển biến xấu, thì sức khỏe thân thể cũng sẽ suy bại.

Người mở công xưởng nhà máy chế tạo thì không được xem nhẹ cung Tật Ách, bởi vì cung Tật Ách chính là [cung Điền Trạch của cung Quan Lộc], cũng chính là cung nhà xưởng. Thật xui xẻo cho đương số này, cung nhà xưởng ở tại Bính Thân, khiến Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Phu Thê xung cung Quan Lộc; ở trên lá số Gốc đã có gieo tượng biểu hiện, người này không thể làm nghề chế tạo, bằng không thì sự nghiệp tất bại.

Cung Phụ Mẫu gốc: Lại tới cung Phụ Mẫu tại Canh Dần, trong cung tọa thủ Thiên Đồng hóa Lộc, Thiên Lương, Văn Xương hóa Khoa, vừa khớp can Canh lại khiến cho Thiên Đồng hóa Kị, thành tình huống Lộc Kị đồng cung, chính là Song Kị, đối cung Tật Ách cũng sẽ phải chịu sự xung kích của Kị tinh. Vì vậy, ở trên Lá số Gốc đã biểu hiện mối quan hệ mật thiết giữa 2 cung Quan Lộc và cung Tật Ách, mà đó lại là triệu chứng không hề tốt.




Lá số của Đại Hạn


Về lá số của Đại Hạn:
Đại Hạn Nhâm Thìn, cung Quan Lộc của Đại Hạn ở Bính Thân, cung Tài Bạch của Đại Hạn ở Canh Tý.

Cung Quan Lộc của Đại Hạn ở tại Bính Thân: khiến Thiên Đồng hóa Lộc nhập đối cung, mà đối cung vốn lại có Thiên Đồng tự hóa Kị, Song Kị Kị Xuất, tiền tài sẽ bị tổn thất rất lớn. Can Bính cũng khiến Liêm Trinh hóa Kị xung Quan Lộc gốc, là kiểu từ cung Quan Lộc của Đại Hạn gây ra sự xung Quan Lộc của Lá số Gốc, tức "Dụng" xung "Thể", tai hoạ tất nặng. Ở trong Đại Hạn này thì sự nghiệp tất có biến động lớn.

Cung Tài Bạch của Đại Hạn ở tại Canh Tý: khiến Thái Dương hóa Lộc nhập vào cung Mệnh của Đại Hạn (cung Điền Trạch gốc), tiền tài có sự nhập khố, nhưng Thái Dương không phải là tài tinh nên tiền tài không được vượng, đến đến đi đi. Vả lại, cung Tài Bạch của Đại Hạn lại ở chỗ cung Huynh Đệ gốc, dựa vào nhiều sự giúp đỡ của anh em, hơn nữa còn là "Sao thị phi" [Cự Môn, Văn Khúc] nên phần nhiều là phù phiếm, khoa trương, toàn là những thành phần không có thực lực.

Thiên Đồng hóa Kị lại nhập cung Dần, mà đã là cung Kị Xuất thì sợ nhất là gặp lại Kị Nhập. Hơn nữa sau khi Kị Nhập lại còn xung Quan Lộc của Đại Hạn, quá rõ ràng, Đại Hạn này nói lên sự nghiệp không kiếm được tiền, bởi vì cung Tài Bạch của Đại Hạn xung Quan Lộc của Đại Hạn vậy!

Tượng này dựa vào giải thích ở chương 11 là " Lộc nhập Ngã cung, Kị nhập Tha cung", là hung tượng của “Lộc tùy Kị tẩu” (Lộc theo Kị chạy). Lộc tuy nhập Ngã cung, nhưng bởi vì Kị nhập Tha cung, cho nên Lộc là Lộc hư ảo, tới rồi có thể mất đi, là điềm báo trước tổn thất lớn.




Lá số của Lưu Niên:

Chúng ta đều biết sự cấm kỵ của "Đồng loại tương xung", mối quan hệ 3 tầng lá số Thiên Địa Nhân bàn, hiểu rõ Nhân Bàn là tiếp nhận sự kiện của "Địa Bàn thành Hình". Sự kiện này sẽ được sinh ra ở năm Lưu Niên của Đồng loại tương xung. Cũng tức là :

Khi mà Quan Lộc của Đại Hạn hóa ra Kị xung cung Quan Lộc của Lưu Niên, Tài Bạch của Đại Hạn hóa ra Kị xung Tài Bạch của Lưu Niên, thì sự kiện dễ xảy ra.

Đương số có cung Tài Bạch của Đại Hạn hóa ra Kị ở cung Dần xung cung Thân, khi cung Thân trở thành cung Tài Bạch thì tài tiền tài thất thoát tựa như hồng thủy cuốn trôi. Tới năm Lưu Niên Giáp Tý, cung Thân biến thành cung Tài Bạch của Lưu Niên, cho nên năm Giáp Tý bạo phát vấn đề về tài vụ.

Mặt khác Quan Lộc của Đại Hạn hóa ra Kị ở cung Hợi xung cung Tị, đến khi cung Tị biến thành cung Quan Lộc thì sự nghiệp liền hỏng mất. Lưu Niên năm Ất Sửu, cung Tị biến thành cung Quan Lộc của Lưu Niên, lại vừa hợp với cấm kỵ là đồng loại tương xung, hơn nữa hóa tinh lại là Liêm Trinh, Liêm Trinh hóa Kị chủ quan tụng thị phi, cho nên năm Ất Sửu bị bắt bỏ tù.


Quá trình phân tích Thiên Địa Nhân bàn, khiến gieo Tượng, thành Hình, thành Sự đều từng bước nhất nhất logic. Cuối cùng để biến thành "Sự kiện" thực sự, thì cần biết quan hệ của ba yếu tố "Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện". Ngay sau đó mới thật sự suy tính vận thế mới là bước hoàn thành phép tính toán. Chúng ta cũng đã lý giải đến phương pháp luận mệnh theo ba bước "Thiên Địa Nhân bàn", và giữa ba yếu tố Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện là có sự quan hệ tương hỗ.


Xét tiếp cung Tật Ách của Đại hạn Quý Tị, đã làm Kị phi ra (Thiên Đồng Kị) xung tới cung Tật Ách của lá số Gốc, chính là loại điều kiện cấm kỵ "Đồng loại tương xung"

Trong thư gửi đến có người hỏi: Làm sao nhìn ra việc sẽ chết ở tại trong ngục? Kỳ thực rất đơn giản, có thể chia làm hai bước để giải lá số:



Thứ nhất, cung Phụ Mẫu gốc quá vượng vừa được tọa thủ bởi Hóa Lộc, Hóa Khoa, lại gặp phải Can cung là Canh khiến cho Thiên Đồng tự hóa Kị, kết hợp Kị sau khi tự hóa với Hóa Lộc gốc thì liền có hung lực của hai tầng Kị. Cho nên đối cung là cung Tật Ách liền phải chịu áp bức đè xuống đầu, vốn chính là có hiện tượng bất lợi cho thân thể.

Thứ hai, lúc Đại Hạn Nhâm Thìn, [cung Quan Lộc của Đại Hạn] và [cung Tật Ách gốc] trùng điệp. Thiên Can của [cung Tật Ách gốc] là Bính khiến Liêm Trinh hóa Kị nhập vào [cung Tật Ách của Đại Hạn], mà vốn dĩ trong [cung Tật Ách của Đại Hạn] đã có Kị năm sinh và kết hợp với phi hóa Kị của Liêm Trinh bay đến tức là có hai tầng hung lực của Kị. Đồng thời [cung Quan Lộc của Đại Hạn] và [cung Tật Ách của Mệnh gốc] trùng điệp, mà lại hóa Kị tới xung [cung Quan Lộc của Mệnh gốc]. Sự bất lợi của sự nghiệp và bạo phát bệnh tật này có mối liên quan.

Một trong số các lực lượng xung tới đó, tinh tú có địa vị then chốt chính là Liêm Trinh. Liêm Trinh là chủ về máu huyết, vừa làm chủ quan lộc, Liêm Trinh hóa Kị diễn biến thành do quan tụng thị phi mà chịu giam cầm. Vì vậy, tổng hợp lại: Sẽ vì sự nghiệp bất lợi dẫn đến quan tòa, các vị hẳn cũng hiểu rõ cái ý tứ của câu [Liêm Trinh hóa Kị, gọi là Tù] rồi mà.


CHƯƠNG 26: XEM SỰ NGHIỆP PHÙ HỢP THEO TÍNH CHẤT CÁC SAO

Các tinh diệu chủ yếu trong Đẩu Số có 28 ngôi

Rốt cuộc là sử dụng cung Tài Bạch hay là cung Quan Lộc để phân tích nghề nghiệp thích hợp hơn? Có nhiều phép xem khác nhau. Đầu tiên, phải hiểu ý nghĩa của cung vị. Cung Tài Bạch chủ tiền tài lưu động, năng lực kiếm tiền hoặc phương hướng kiếm tiền; còn cung Quan Lộc vừa được gọi là cung hành vi, chính là các hành động, đặc tính của một cá nhân.

Từ sự khác biệt cung vị có thể thấy: Cung Tài Bạch khá tốt đẹp so với cung Quan Lộc, thì có thể làm nghề tự buôn bán kinh doanh, lúc này lấy cung tinh tú của Tài Bạch để luận ngành nghề kinh doanh thích hợp; Còn nếu như cung Quan Lộc khá tốt đẹp hơn so với cung Tài Bạch, thì thích hợp nhậm chức, chức nghiệp thích hợp lúc này lấy theo tính tốt đẹp của tinh tú tọa trong cung Quan Lộc.

Đương nhiên, qua tính chất sao cung Quan Lộc hoặc cung Tài Bạch có thể tổng hợp chỉnh lý như sau:

Sao Tử Vi: Là đứng đầu các sao, thích lên tiếng ra lệnh mà không thích bị người quản lý, cho nên phù hợp làm quản lý, công việc về phương diện chỉ đạo, như giáo sư, kế toán viên cao cấp, công trình sư, chính giới, quản lý xí nghiệp công hoặc tự doanh.

Sao Thiên Cơ: là sao chủ tâm tư tinh tế, suy nghĩ linh hoạt, tiếc là không đủ mạnh mẽ, có thể đảm nhiệm các loại nghề nghiệp lập kế hoạch dự án, nghệ thuật, tôn giáo, xuất bản, đồ gỗ. Nếu như gặp sát tinh kích phát, có thể phát tài nhờ kỹ thuật, sao này không chủ về hoạnh phát tiền tài mà là sao chủ về sự chắc chắn ổn định để có được thành công chung cuộc.

Sao Thái Dương: Tràn ngậpn lòng bác ái, hiếu động, không chịu quản thúc, cho nên thích hợp giới chính trị, tự lập nghiệp, thương mại. Nếu như lạc hãm, thì nên theo các loại nghề nghiệp vận tải, làm thuê, có liên quan tới sự đi lại ở bên ngoài, còn nếu vượng địa có thể làm nghề nghiệp điện khí. Lâm vào cung Nô bộc càng tốt đẹp, có thể đi vào diễn đàn chính trị làm dân biểu.

Sao Vũ khúc: Là tài tinh, vừa là sao cô độc, cá tính cương cường, cho nên có thể nhậm chức trong nghề tài chính, quân cảnh, bảo hiểm, tài chính và kinh tế, nghề nghiệp liên quan đến kim khí. Nếu như lạc hãm thì nên làm thuê trong nghề liên quan đến kim khí cũng như gia công.

Sao Thiên Đồng: Là biểu trưng của sự hòa hợp t*o nhã, cho nên nên phù hợp chính trị, công chức, nghề phục vụ, tôn giáo, từ thiện, quần áo trang sức. Nếu mà hãm địa gia thêm sát tinh, tương đối lười, thành tựu không cao, nên làm nghề lao động thủ công.

Sao Liêm Trinh: Là chủ quan lộc, tính dễ nổi giận, giỏi tranh chấp, cho nên thích hợp giới quân cảnh, nhân viên tư pháp; vừa hóa khí là đào hoa, cho nên loại nghề chăm sóc sắc đẹp, mỹ nghệ cũng hợp, cái khác như nghề điện khí, xí nghiệp cũng có thể phát huy sở trường.

Sao Thiên Phủ: Sao Thiên Phủ cá tính cương cường và không cúi đầu trước người khác nhiều, cho nên đa số tự lập nghiệp, các loại nghề thích hợp như buôn bán nhà đất, cửa hàng bạc, bách hóa, hiệu cầm đồ. Thiên Phủ vừa là nông sản phẩm, cho nên nông nghiệp, các nghề chăn nuôi, trồng trọt đều phù hợp.

Sao Thái Âm: Là chủ điền trạch, vừa là nữ nhân, cho nên thích hợp làm các nghề bất động sản, kiến trúc, thiết kế nội thất, thiết kế sân vườn, nghề làm vườn, trang trí, nữ trang quần áo trang sức, đồ trang điểm, đồ làm bếp. Lạc hãm thì nên đi làm, cũng tương đối tốt nếu làm nghề thiết kế, trang trí. Người mà Thái Âm có thêm Văn Xương hoặc sao Văn Khúc, thích hợp học Tử Vi Đẩu Số.

Sao Tham Lang: Là sao tài nghệ, vừa sẵn có nghị lực kiên nhẫn, cho nên tính thích nghi của nó khá rộng, nhưng không rời xa phạm vi các nghề nghiệp "Rượu, sắc, tài, khí", như: Ăn uống, thực phẩm, rượu chè, vui chơi, trang hoàng nội thất, trang trí, thiết kế quần áo trang sức, thương nghiệp. Trong đó chữ "Sắc" là chỉ cả hai phương diện về tài hoa tạo hình mỹ thuật và tình dục. Cho nên nếu mà Tham Lang lạc hãm thì phần nhiều sẽ lưu lạc trong chốn phong trần, nhưng Hóa Kị hoặc Không, Kiếp đến chế hóa thì ngược lại sẽ có thể nết na đoan chính.

Sao Cự Môn: Trên cơ thể người chính là cái cửa miệng rất bự, cho nên thích hợp nghề nghiệp dùng miệng lưỡi để kiếm tiền, lại vừa có sẵn bản tính nghi hoặc, đặc tính tìm tòi nghiên cứu, cho nên cũng có thể làm tốt các công việc nghiên cứu chỉnh lý như Luật sư, Giáo sư, Xuất bản, Nnghiệp vụ, Marketing, Mục sư, Nghiên cứu lý luận.

Sao Thiên Tướng: Chính là ngôi sao "Gà mái mẹ", nhiệt tình phục vụ, giỏi việc cơm áo, thích nói chuyện phiếm, cho nên thích nghi với các nghề nghiệp Chính trị, Luật sư, Nghiệp vụ, Ngoại giao, Bán hàng, Ăn uống, Y dược (là sao Thuốc), thời trang. Nếu lạc hãm thì nên chú ý, dễ rơi vào nơi chốn bất chính, nếu thêm Kình Dương, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Đà La lại càng ứng nghiệm, bởi vì dễ bị bạn bè xấu xui khiến.

Sao Thiên Lương: Đẩu Số Toàn Thư có nói: Lương kể cả khi không lạc hãm cũng không hề tỏ vẻ là người đôn hậu, có thể thấy sao Thiên Lương vốn bản chất có mang đặc tính khoe khoang khoác lác cho nên làm các công việc thuộc giới xào xáo cổ phiếu, Xuất bản, Truyền bá, Marketing. Nhưng lại do có bản tính ngay thẳng có tài biện bác cho nên làm các nghề Công giáo, Quan toà, Viết thuê, Nhân viên kiểm toán cũng thích hợp. Và cũng có thể làm nhà bào chế dược liệu, thầy thuốc đông y.

Sao Thất Sát: Ý nghĩa như tên gọi, có mang theo sát khí đặc biệt, không nên có quan hệ với những nghề kim khí như Gia công ngũ kim, Tinh luyện kim loại, Chế tạo máy móc. Lại bởi vì sát khí cho nên cũng có thể xếp các nghề nghiệp nên làm có liên quan tới Quân nhân, Cảnh sát, Bác sĩ, Đồ tể. Nếu gia thêm Văn Xương, Văn Khúc phần nhiều là người huấn huấn luyện viên kiểu các loại Quân nhân văn chức, thêm Tứ Sát tinh thì đa số làm đồ tể. Các nghề chăn nuôi trồng trọt đánh bắt cũng có thể được.

Sao Phá Quân: Là hiện tượng tiêu hao, phá bại, tình hình hỗn loạn ở chợ thực phẩm như thế nào thì tính chất của sao này cũng tương tự như vậy. Cho nên thuộc dạng buôn bán thực phẩm, đương nhiên, buôn bán tiệm tạp hóa thương phẩm hay thu mua sắt vụn hoặc nghề nghiệp xử lý các loại vật tư này cái cũng là phù hợp. Mặt khác, các nghề như Bán buôn bách hóa, Hóa học, Dược phẩm đều có thể thích ứng.

Sao Văn Xương, sao Văn Khúc: Vừa nhìn biết là mang theo tính chất hào hoa phong nhã, cho nên nên hợp văn không thích hợp võ, hợp nhất làm các nghề Thiết kế, Nghệ thuật, Văn học, Ký giả, Xuất bản văn hóa phẩm, Quảng cáo, Dạy học. Lại vừa do có tài ăn nói không tồi cho nên các công tác chuyên nghiệp cũng có thể làm tốt. Sao Văn Khúc phần nhiều thep nghề làm Thầy bói, Nghệ thuật.

Hỏa Tinh, Linh Tinh: Có lửa, có âm thanh leng keng, sẽ liên tưởng ngay đến các công việc chế tạo, rèn gang, luyện thép, đóng thuyền, công nghiệp xử lý nhiệt. Phái nữ thì làm nghề Biểu diễn, Âm nhạc, Công việc về âm thanh, cũng có thể làm các công tác kỹ thuật khác liên quan đến kim khí.

Kình Dương, Đà La: Kình Dương là Dao giải phẫu, Vũ khí, cho nên rất có liên quan tới bác sĩ Ngoại khoa, Quân cảnh, các nghề nghiệp khác mang tính chất liên quan tới "Kim" như Gia công kim loại, Chế tạo kim khí đều phù hợp.


CHƯƠNG 27 & 28: ẢNH HƯỞNG CỦA 12 CUNG ĐỐI VỚI TÀI VẬN VÀ SỰ NGHIỆP

Bởi vì trong 12 cung, không thể xảy ra mọi cung đều xấu, mà luôn có 1 hoặc 2 cung vị nào đó tương đối cát lợi. Nếu có thể hướng đến cái cung cát lợi đó để phát triển thì cũng có thể xu cát tị hung.

Về vấn đề miếu hãm, chỉ cần suy xét Trung Thiên tinh đẩu, như Thái Dương, Thái Âm, còn các sao khác thì quan hệ miếu hãm tương đối không được chú trọng.

Bây giờ chúng ta cùng xem một ví dụ luận mệnh: người này làm nghề kiến trúc, 29 tuổi năm Tân Dậu bị mất một trăm vạn, nguyên trong sách chưa giải thích, bây giờ đến phân tích xem:

Năm 29 tuổi đang ở Đại Hạn 22-31, [cung Mệnh của Đại Hạn] tại vị trí cung Dậu.

[Cung Tài Bạch của Đại Hạn] tại cung Đinh Tị, can Đinh khiến Cự Môn tự hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc.
[Cung Mệnh của Đại Hạn] ở cung Tân Dậu, can Tân khiến Văn Xương tự hóa Kị xung tới cung Quan Lộc gốc.
[Cung Quan Lộc của Đại Hạn] ở cung Ất Sửu, can Ất khiến Thái Âm hóa Kị nhập vào [cung Quan Lộc gốc] xung tới [cung Mệnh của Đại Hạn].

Tự hóa Kị gọi là Hóa xuất, đại biểu cho ý nghĩa "Rỏ rỉ, trôi mất", lúc 29 tuổi thì vừa đúng lúc tiến vào [cung Mệnh của Đại hạn], lực lượng cát hung trùng điệp giữa [cung Mệnh của Lưu Niên] và Đại Hạn gia tăng gấp bội. Cho nên ở năm 29 tuổi, năm Tân Dậu, bởi vì bất lợi trong nghề đầu tư kiến trúc, bị mất một trăm vạn.



Vậy phải đề phòng như thế nào đây? Miễn là không cho người ta vay tiền là được. Bởi vì sự vật ở trạng thái tĩnh là vô cát vô hung, phải có biến động mới có thể sinh ra hiện tượng cát hung. Nhất định phải có phát sinh quan hệ vay mượn với người khác mới có thể sinh ra bị lừa mất.

Động Tĩnh chính là then chốt biến hóa của cát hung, về góc độ mệnh lý có dấu hiệu, nhưng đang lúc người trong cuộc chưa phát sinh quan hệ vay mượn với người khác, cho nên sẽ không hiện lên sự kiện bị mất tiền. Nếu như khẽ động (tức là cho người khác vay tiền) thì sẽ phát sinh sự việc tổn thất tiền bạc

Bởi vì chuyện cuộc đời rắc rối muôn vẻ, vẻn vẹn từ 12 cung thì khó có thể bao hàm hết, nhất định phải vận dụng linh hoạt quan hệ “mượn cung”. Lấy chuyện cho người khác vay tiền để nói, đối tượng mượn, có thể là huynh đệ, tỷ muội, thân thích hoặc bằng hữu,… Cho những đối tượng này mượn thì có thể mất tiền hay không?

Ở trong Tử Vi Đẩu Số, cung Tài Bạch đại biểu cho tiền tài lưu động, quay vòng. Cũng có thể nói đó là khả năng quay vòng nhanh hoặc năng lực quản lý tài chính. Cho nên, cung Tài Bạch tốt đại biểu cho tiền tài quay vòng thuận lợi, lưu động xuôn sẻ mà thôi.

Cung Điền Trạch có thể đại biểu năng lực dự trữ, cung Điền Trạch cát lợi, có thể giảm bớt những chi tiêu không thiết yếu hoặc ngoài ý muốn. Nếu như cung Điền Trạch có sát tinh tụ tập, thì một khi cầm tiền về nhà sẽ như kiểu tuyết bị dội nước sôi, tốn hao cho việc tiệc tùng xã giao của lục thân, cho việc lắp đặt trang trí vật dụng trong nhà, cơ bản là không có tiền để tích trữ. Cho nên, cát hung của cung Điền Trạch cũng sẽ ảnh hưởng tới vượng suy của tài bạch. Vì thế, không được quên biểu hiện ý nghĩa cát hung của cung Tài Bạch và cung Điền Trạch đối với việc sử dụng tài chính.

Kế tiếp nói tới quan hệ cung Điền Trạch và cung Quan Lộc. Lập nhà máy, mở cửa hàng, tất cả mọi người đều sẽ mời thầy Địa Lý tới xem xem tọa hướng của nhà cửa có được cát lợi hay không?

Ở trong Tử Vi Đẩu Số, cung Điền Trạch và cung Tật Ách đều là các cung vị mấu chốt dùng để suy đoán tọa hướng cát hung của mặt tiền cửa hàng. Nếu như cung Điền Trạch cát lợi, có thể dựng nhà ở mở mặt tiền cửa hàng, còn nếu như sát tinh thành đàn thì tốt nhất là đi tìm mảnh đất lành khác.

Nếu như là thuê phòng để làm cửa hàng kinh doanh hoặc làm văn phòng công ty thì phải phối hợp các cung Tật Ách của Lưu Niên và của Đại Hạn, xem các cung Tật Ách ấy có cát lợi hay không? Nếu như nhiều cát tinh thì có thể dùng làm mặt tiền cửa hàng, nếu như nhiều sát tinh tập hợp, sẽ so sánh giữa cung Tật Ách và cung Điền Trạch xem cung vị nào tốt hơn để ra quyết định.

Tại sao phải xem cung Tật Ách ư? Là bởi vì cung Tật Ách chính là [cung Điền Trạch của cung Quan Lộc], biểu thị tình trạng của của nhà xưởng hoặc tình hình của mặt tiền cửa hàng kinh doanh. Do đó, từ cung vị có thể suy đoán trạng thái kinh doanh của công ty, tình hình di dời hoặc thay đổi trang hoàng, hoặc phân tích xem giữa bạn và nơi làm việc có phù hợp hay không?

Cung Điền Trạch cát lợi, cung Tật Ách không tốt, cửa hàng buôn bán thường bị trộm cắp ghé thăm, các phần tử bất hảo tới đòi thu tiền bảo kê hoặc chúng có ác ý phá hoại, nếu như có các sao Hỏa Tinh, Thiên Hình, Cự Môn thì dễ bị thần lửa ghé thăm; Tả Phụ, Hữu Bật thường gặp bọn đạo chính

Việc buôn bán thì uy tín thương hiệu rất quan trọng, nếu như danh tiếng không tốt thì khách hàng không dám tới cửa, việc làm ăn nhất định không tốt, cho dù chiếm hết Thiên thời, Địa lợi, duy chỉ có thiếu Nhân hòa thì sớm hay muộn vẫn là phải đóng cửa. Nhân hòa là yếu tố rất quan trọng bởi vì có rất nhiều báo cáo điều tra về quản lý kinh doanh đều chỉ ra rằng "Nhân tài là tài sản trọng yếu nhất của doanh nghiệp", có thể thấy nhân quan trọng mức nào. "Nhân hòa" có thể chia làm 2 loại "Ngoại bộ nhân hòa" và "Nội bộ nhân hòa".

"Ngoại bộ nhân hòa" chính là chỉ mức độ thân thiết của khác hàng với chính doanh nghiệp, cửa hàng.

Tử Vi Đẩu Số sử dụng cung Nô Bộc và cung Thiên Di để biểu thị, hai cung vị hợp lại biểu thị danh tiếng và sức hấp dẫn đối với khách hàng. Hai cung vị này cùng cát lợi, sự nghiệp kinh doanh thường thường ít sóng gió, khách hàng sẽ giúp chúng ta quảng bá. Nếu như trong cung tọa đều là các loại sát tinh như Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Không, Địa Kiếp, thì danh tiếng không tốt hoặc có người cố ý hãm hại phá rối mà ảnh hưởng kinh doanh.

"Nội bộ nhân hòa" tức là mức độ cao thấp về sự chung lòng chung sức, độ trung thành của người làm.

Tử Vi Đẩu Số dùng cung Tử Tức để biểu thị điều này. Đương nhiên, cũng cần phải xem thêm cung Nô Bộc, bởi vì cung Nô Bộc biểu thị năng lực đối nhân xử thế của một người là cao hay thấp. Nếu như cung Nô Bộc cát lợi, thì thường tuyển chọn được nhân viên đều khá ưu tú, còn ngược lại thì thường là sẽ chọn phải những người làm tán dóc bàn lùi.

Có một số thí dụ cụ thể đặc trưng, cũng không phải tự bản thân người ta có năng lực đặc biệt mà phát triển hoặc kiếm tiền, mà là thừa kế sản nghiệp của tổ tiên hoặc bố mẹ giúp đỡ mà thành công, hoặc bởi vì huynh đệ tỷ muội của mình giúp đỡ mà dựng nghiệp, một số trường hợp này sẽ xem từ cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ.

Bởi vậy có thể thấy, việc buôn bán lãi lời và việc thành bại của sự nghiệp có mối quan hệ phức tạp qua lại lẫn nhau. Mệnh bàn 12 cung đều có mối quan hệ với thành bại của sự nghiệp, thăng trầm của tài sản.

Bây giờ chúng ta đi phân tích một ví dụ luận mệnh:

Đây là vị tiên sinh đã nhiều lần dùng tiền riêng để khởi nghiệp, nhưng mà lúc thành lúc bại, sau này tài chính không đủ nữa mới liên kết hùn vốn với bạn bè. Kết quả là bắt đầu sinh lời, còn có dư tiền để mua nhà đất.



Mệnh bàn bày ra chính là cách cục Sát Phá Lang, Hóa Lộc của Tứ Hóa thiên can năm sinh nhập vào cung Phu Thê, Hóa Quyền nhập vào cung Quan Lộc, Hóa Khoa nhập vào cung Phúc Đức. Tam cát Hóa tinh đều nhập và chiếu tam phương của cung Mệnh gốc, chính là thuộc về cách cục vốn có hùng tâm về sự nghiệp. Thế nhưng đại đa số cách cục Sát Phá Lang trước tiên vất vả cần cù, thành bại thất thường. Tuy có tam cát Hóa tinh hội nhập tam phương của mệnh cục nhưng mà cũng chỉ đại biểu nhìn bên ngoài to lớn mà thôi, nếu hành vận không được cát thì lên xuống là chuyện thường. Cho nên, sự thành bại thất thường ở trước thời trung niên và mệnh cục của anh ta tương xứng với nhau. Chẳng qua là người mà cung Mệnh gốc vốn có sẵn tam cát Hóa tinh hội nhập tam phương mệnh cục, thì cuối cùng cũng có một ngày thăng tiến huy hoàng. Hơn nữa, lúc vận đồ đi vào nửa sau cuộc đời, cũng sẽ không gặp chỗ nào suy kém, mới ngon hơn trước.

Cung Điền Trạch có sao Thái Dương hóa Kị tọa thủ cùng sao Hữu Bật. Thái Dương tại Hợi đã mất quang huy, đối cung là Cự Môn biểu thị tài khố nhiều tiêu hao, lắm thị phi, năng lực quản lý tài chính khá kém.

Cung Nô Bộc có sao Thiên Cơ, Thiên Khôi, Đà La, mà 2 sao Đà La và Thiên Khôi phối hợp sẽ mang ý nghĩa hùa nhau làm điều xấu, sao Thiên Cơ có năng lực khống chế sát tinh cực kỳ yếu, cho nên tổng hợp cung Nô Bộc lại cho thấy Ngoại bộ Nhân hòa không được tốt (quan hệ đối tác bên ngoài không tốt), tự mình làm kinh doanh, tự đi ra ngoài quan hệ giao tiếp thì phần nhiều là không như ý.

Do việc buôn bán không tốt, sau phải dứt khoát từ bỏ mà cùng với bạn bè hợp tác. Thời điểm này sẽ phải xem ở cung vị nào đây? Người cộng sự chính là Giao hữu (Nô Bộc) của Sự nghiệp (Quan Lộc) mà! Cho nên lấy cung Quan lộc làm cung Mệnh (lập Thái Cực) để tìm ra [cung Nô Bộc của cung Quan Lộc]. Cũng chính là cung Tử Tức của lá số Gốc, liền trở thành cung vị đại biểu cho người cộng sự. Cung Tử Tức gốc là cung Kỷ Tị có các sao Cự Môn, Văn Xương, tọa thủ, mà việc buôn bán vốn là phải dùng lời nói ngọt thì hàng hóa mới có thể bán đi được. Nếu không, chữ Thụ (售, tiêu thụ, bán) làm sao lại sử dụng việc ghép cặp chữ “Trụ Khẩu” (住口 nương vào cái miệng) để mà hiểu chứ. Cho nên việc làm ăn phải tìm người Cự Môn, cộng thêm Văn Xương thì càng làm tăng khả năng thuyết phục. Khiến cho năng lực thương thuyết trở nên đáng kinh ngạc. Hơn nữa, [cung Tử Tức của Đại Hạn] có các sao Thiên Đồng Văn Khúc tọa ở cung Quý Dậu, cũng là những tinh diệu có tính thuyết phục tốt. Cho nên từ tính chất các sao đến góc độ xem, cung Tử Tức của Mệnh gốc và của Đại Hạn đều rất cát lợi.

Nếu chúng ta dùng kết cấu tổ hợp Tinh tú ở tam phương, Tứ hóa tương xung, Hóa xuất Hóa nhập để mà xem thì Đại Hạn ở cung Bính Tý (44 - 53 tuổi) quả thực là không được lý tưởng:
Kết cấu tổ hợp Tinh tú ở tam phương của Đại Hạn: Tiên thiên Lộc Quyền Khoa nhập chiếu tam phương [cung Mệnh của Đại Hạn], nhưng cũng hội nhập Thiên Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh là tứ sát tinh. Tam phương có Lộc Quyền Khoa hội nhập vào trong Đại Hạn, tức là trong lòng hoặc hoàn cảnh bên ngoài có nhân tố kích phát thành có hùng tâm cá nhân, muốn hành động một phen, nhưng mà có sát tinh hội nhập vào thì quá trình phấn đấu sẽ gặp trở ngại.

Quan hệ của [Tứ Hóa gốc] với [Tứ Hóa của Đại Hạn]: [cung Mệnh của Đại Hạn] khiến sao Liêm Trinh hóa Kị; [cung Tài Bạch của Đại Hạn] khiến sao Vũ Khúc hóa Kị xung vào [cung Tài Bạch gốc]; [cung Quan Lộc của Đại Hạn] khiến hóa Lộc ở bên ngoài của cung Tài Bạch, ngoài ra còn có Hóa Quyền, Hóa Khoa đều không nhập vào tam phương cung Mệnh gốc, Hóa Kị lại rơi vào cung Nô Bộc, bộ Tứ Hóa của [cung Mệnh của Đại Hạn] và của [cung Quan Lộc của Đại Hạn] rơi vào góc độ của mệnh cục đều không tốt. Cộng thêm [cung Tài Bạch gốc] bị [cung Tài Bạch của Đại Hạn] khiến Vũ Khúc hóa Kị xung phá dễ khiến cho chẳng những không kiếm được tiền mà còn bồi thường nữa!

Nhưng anh ta lại kiếm được không ít tiền qua việc xuất nhập khẩu, tại sao lại vậy? Đây hoàn toàn là người cộng sự (cung Tử Tức) ban cho, tổ hợp tinh tú ở trong cung Tử Tức thì đã nói phía trên, bây giờ xem kết cấu của Tứ Hóa như thế nào?

Can cung Tử Tức gốc là Kỷ khiến Vũ Khúc hóa Lộc, Tham Lang hóa Quyền nhập vào cung Phúc Đức gốc, trên trục với Tài Bạch.

Can của [cung Tử Tức của Đại Hạn] là Quý khiến Phá Quân hóa Lộc nhập vào cung Quan Lộc gốc, Tham Lang hóa Kị nhập vào cung Tài Bạch gốc.

Hơn nữa, cung Tử Tức gốc và [cung Tử Tức của Đại Hạn] có tinh diệu cát lợi tọa thủ, do vậy dấu hiệu người cộng tác giúp ta kiếm tiền là rất rõ ràng.

Hẳn người đọc sẽ có một nghi vấn là: [cung Tử Tức của Đại Hạn] hóa Tham Lang thành Kị nhập vào [cung Tài Bạch gốc] thì không phải là chuyện bất lợi sao? Vì sao nói là người cộng tác kiếm tiền cho ta? Ở chỗ này, tôi muốn cùng mọi người thống nhất một quan điểm là ‘’Hóa Kị không hoàn toàn là bất lợi’’, nó cũng đại biểu cho một mặt cát lợi. Sự khác biệt chính là ở chỗ “Kị nhập”, “Kị xuất”. Giống như trong thí dụ này, [cung Tử Tức của Đại Hạn] hóa Lộc nhập vào cung Quan Lộc gốc còn Hóa Kị nhập vào cung Tài Bạch gốc. Căn cứ theo quy tắc “Lộc theo Kị mà đi”, Hóa Lộc và Hóa Kị đều nhập vào Ngã cung là có ý “Thu liễm, tàng phục”. Cho nên Hóa Lộc này là cái ta nhận được, luận là cát lợi. Điểm này vô cùng quan trọng trong quy tắc sử dụng Tứ Hóa. Cầu thầy học nghệ cũng chưa chắc đã được truyền thụ cho bí quyết.



CHƯƠNG 29: SUY ĐOÁN VỀ SÓNG GIÓ CỦA HÔN NHÂN

Về cơ bản chỉ cần Tam phương của cung Mệnh và cung Phu Thê không có các Sát Kị tinh hội nhập, là chủ vợ chồng hòa hợp tính tình, ăn ở thuận hòa. Nếu có quá nhiều sát tinh hội nhập, hoặc Kị tinh xung đến, đều chủ về vợ chồng vô duyên, nhiều tranh cãi, hôn nhân muộn. Đây chỉ là từ tính chất các sao để phán đoán thôi. Cũng không thể diễn tả diễn biến trạng thái động của vận trình cuộc sống. Tinh tú chỉ đại biểu hiện tượng ở trạng thái tĩnh, không nhất định sẽ sinh ra lành dữ.

“Vận đồ” của Người chính là trạng thái động, sẽ tùy theo sự biến hóa của Thời gian, Không gian, mà thay đổi.  Nguyên nhân tạo thành hôn nhân sóng gió có nhiều không kể xiết, thực tế thì không thể chỉ dựa vào 2 cung Mệnh và Phu Thê là có thể nhìn nhận ra huyền cơ biến động của hôn nhân.

Nếu là xem hôn nhân, đương nhiên phải xem [cung Phu Thê là cung cơ bản], còn những cung khác như Tài Bạch, Quan Lộc cũng sẽ tạo thành sự biến hóa của mối quan hệ vợ chồng đối đãi. Nếu là vấn đề mẹ chồng, thì cung Huynh Đệ chính là [cung Phụ Mẫu của cung Phu Thê] cũng chính là cung vị đại biểu cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ của người đã kết hôn.

Chúng ta đều biết, nói về một sự kiện thì cần gồm có 5 yếu tố Người, Sự việc, Thời gian, Nơi chốn, Sự vật thì mới được coi là hoàn chỉnh.

Trong lá số, Tinh Tú, Cung Vị, Thiên Can, Địa Chi, Hóa tinh đã bao hàm 5 yếu tố chủ chốt. Nhưng làm thế nào để tìm ra được mối quan hệ của [Người, Sự việc, Thời gian, Nơi chốn, Sự vật] và “Tinh Tú, Cung Vị, Thiên Can, Địa Chi, Hóa tinh”. Đơn giản mà nói, các nhân tố ảnh hưởng mấu chốt ở trong sự biến hóa của chúng là ở chỗ Tứ Hóa. Thông qua sự Khởi phi và Lạc nhập của Tứ Hóa hình thành mối quan hệ nương tựa giữa 2 cung vị, sau đó lại từ trong quan hệ này mà diễn giải rõ ra sự bao hàm 5 yếu tố [Người, Sự việc, Thời gian, Nơi chốn, Sự vật].

Tứ Hóa tinh ở trong cuộc sống hôn nhân cần phải giải thích như thế nào? Có thể đơn giản mà nói như sau:

Hóa Lộc: đại biểu cho có tình ý với nhau, có duyên phận sâu đậm với nhau, tình nghĩa tươi tốt tràn trề.
Hóa Quyền: đại biểu cho việc có thành tựu, có tài cán, nhưng ngang ngược, ưa quản chế, tranh chấp, thăng tiến.
Hóa Khoa: đại biểu cho quý nhân, sự nhã nhặn lịch sự, sự ung dung thong thả, sự thanh tú xinh đẹp.
Hóa Kị: đại biểu cho những sự lo lắng, tranh chấp, vô duyên bạc phận, mắc nợ, muộn cưới, chôn giấu.


Thiên Can là chỉ Thiên can Tứ Hóa, gồm có Thiên can năm sinh, Thiên can 12 cung, Thiên can cung Đại hạn, Thiên can cung Lưu Niên,… những thứ Thiên can này sẽ phi xuất Tứ Hóa phân bố ở trên lá số. Căn cứ mối quan hệ của cung vị nơi Khởi phi và nơi Lạc nhập mà có khác biệt giữa [Hoá xuất] và [Hóa Nhập]. [Hóa Nhập] ý nghĩa là đến, là lấy được, đoạt được. [Hóa Xuất] ý nghĩa là không cam lòng, mất đi mà trong lòng không muốn. [Tự Hóa] ý nghĩa là không biết nắm cơ hội, uổng công vô ích.

Thí dụ như mệnh bàn A bên dưới, cung Mệnh can Tân khiến cho Cự Môn hóa “Lộc nhập” cung Phu Thê. Đối với cung Mệnh của ta mà nói chính là hóa Lộc “Lộc xuất” cấp cho vợ chồng, tức là ta sẽ nỗ lực yêu thương quan tâm đến vợ chồng của mình. Còn đối với cung Phu Thê mà nói, chính là từ cung Mệnh ta hóa Lộc cấp cho họ, là trạng thái của “Lộc Nhập”, cũng tức là người vợ chồng có thể nhận được sự quan tâm yêu mến của ta. Bởi vì từ cung Mệnh khởi phi, đại biểu Hóa của ta cấp cho người phối ngẫu.



Nhưng người phối ngẫu có nhận được hay không? Khi nhận được sự quan tâm yêu mến của ta thì có chấp thuận hay không? Thì cần xem tình huống phân bố Tứ Hóa của cung Phu Thê. Có sự Tự Hóa hay không? Như đồ hình trên, cung Phu Thê tại Sửu có Thiên Can là Tân khiến cho Văn Xương hóa Kị ở cung Phu Thê (loại tình huống này được gọi là Văn Xương tự hóa Kị). Tự hóa Kị mang ý nghĩa là “Trôi đi, mất đi”, và cũng mang ý nghĩa mối quan hệ vợ chồng có trạng thái “Phát tán”, chứng tỏ người phối ngẫu không không hề tiếp nhận tình cảm, đối với những sự quan tâm yêu thương của ta đều hờ hững thờ ơ. Dĩ nhiên là muốn giải thích chính xác thêm ra là loại hình thái nào thì cần phải từ từ tổ hợp tinh tú để mà phân tích. Ở ví dụ này, cung Phu Thê có các sao [Thiên Đồng, Cự Môn, Văn Xương]. Thiên Đồng là nhẫn nhịn điều hòa, Cự Môn là ám tinh chủ miệng lưỡi, Văn Xương chủ văn thư học thức, do đó mà tổ hợp 3 sao này hợp lại có ý nghĩa “Sự hiểu lầm, miệng lưỡi thị phi”, có thể giải thích là vì giao tiếp không tốt hoặc không biết cách bày tỏ nê khiến cho thiện ý quan tâm đối phương bị hiểu lầm mà khiến cho mối quan hệ giữa hai người phủ lên một màn sương mù.

Lại như cung Mệnh ta hóa Lộc nhập cung Phu Thê, rồi cung Phu Thê lại hóa Lộc nhập cung Mệnh ta, loại này là hiện tượng “Lộc lai Lộc khứ” (Lộc đến Lộc đi) chứng tỏ ý tứ là quan tâm chăm sóc qua lại lẫn nhau. Hóa Quyền vốn có ý nghĩa tôn trọng nhau và tương kính như tân. Hóa Khoa thì là yêu ở trong lòng mà khó mở miệng nói ra. Sau đó lại phối hợp với các tinh tú trong cung có thiện tính hay ác tính, thì biết được ngay hôn nhân là tốt hay xấu.

Thứ nhất, chúng ta bắt đầu nói từ Tứ Hóa năm sinh nhập vào cung Phu Thê:
Hóa Lộc: Rất có duyên với người khác giới, tình duyên cả hai phía đều sâu đậm quyến luyến lẫn nhau, cho nên cưới khá sớm nhưng không nhất định là dạng tảo hôn.
Hóa Quyền: Đối phương là người có tài cán, trên sự nghiệp là người cầm quyền hoặc tự sáng lập sự nghiệp, hoặc quen biết lúc mà đối phương đã có danh vọng tương đối khá trong xã hội hoặc đã có nền tảng sự nghiệp.
Hóa Khoa: Tướng mạo và dáng vóc của người phối ngẫu cân xứng đều đặn, hào hoa phong nhã, làm việc khoan thai, rơi vào nguy nan thì gặp lực lượng hóa dữ thành lành, thuộc về nhóm người trí thức (Xương Khúc hóa Khoa thì càng thêm chính xác).
Hóa Kị: Quan tâm quá mức hoặc không quan tâm đến người phối ngẫu, dẫn đến việc ở chung không hợp, lại cũng chủ thiếu nợ, cho nên sẽ vì đối phương mà phải bỏ ra nhiều công sức, hoặc như đối phương mang bệnh kinh niên hoặc sự nghiệp trường kỳ bất thuận, cho nên phải một mình gánh trách nhiệm gia đình về lâu về dài, chính vì thế nên kết hôn muộn.

Tứ Hóa theo Can cung Mệnh và Can cung Phu Thê tương tác với nhau mà phát sinh ra những tác động khác nhau.



Như ở lá số B thì Thiên can năm sinh hóa Kị nhập phu thê, chứng tỏ là sẽ quan tâm đến người phối ngẫu hoặc sẽ vì đối phương mà bỏ ra tâm huyết, nhưng mà việc thị phi cãi vã là không tránh khỏi. Hiện tại Can cung Mệnh hóa Lộc nhập cung Phu Thê chứng tỏ ta rất yêu thương người phối ngẫu. Chẳng qua là cùng với Hóa Kị năm sinh đụng độ lẫn nhau, biến thành Song Kị. Tượng của thí dụ này chính là Thái Âm hóa Lộc và Thái Dương hóa Kị tác động lẫn nhau. Không phải cùng là từ 1 sao thì sẽ không sinh ra hiệu lực song Kị. Hai lực lượng Hóa Lộc và Hóa kỵ cùng tồn tại sẽ trở thành chuyện tình cảm không ổn định. Bởi vì Hóa Kị năm sinh còn có ý nghĩa là thiếu hụt, trong khi cung Phu Thê là [sao Thái Dương hóa Kị đồng cung với Thái Âm], nếu là nữ mệnh thì do sao Thái Dương hóa Kị biểu thị ý nghĩa có sự khiếm khuyết về chồng. Không phải là mang ý nghĩa rằng người chồng có điều kiện hơi kém, mà là mang ý nghĩa sẽ kết hôn trễ hoặc không kết hôn. Nếu như là nam mệnh, khí thế của người vợ sẽ hơn hẳn, người chồng thường phải nịnh nọt ý kiến của vợ, tính chiếm hữu của người vợ rất mạnh mẽ, khiến cho cư xử vợ chồng mất cân bằng, vì vậy ăn ở với nhau không hòa thuận, sinh ra tranh chấp hoặc oán giận lẫn nhau.

Nếu Thiên can cung Mệnh hóa Quyền nhập cung Phu Thê mà cùng với Hóa Kị năm sinh tương tác lẫn nhau, do là ta hóa Quyền cấp cho phối ngẫu, ta mà to tiếng thì phối ngẫu sẽ còn to tiếng hơn. Có thể dẫn ra thí dụ cho rõ là, đối phương bất chấp lý lẽ còn mình thì cũng kiên trì ý kiến bản thân, không có ai chịu nhường ai.
Nếu là Hóa Khoa thì nói như thế nào? Chính là sẽ biết ngồi xuống để nói rõ phải trái, cho nên cung Phu Thê mừng nhất là có Khoa tinh tọa thủ.

Luận về các sao Tứ Hóa, quan trọng hàng đầu là sao Hóa Kị, cường độ lực của Hóa Kị thì lấy Xung là hung nhất, còn hung lực của Tọa thì kém hơn. Cho nên khi gặp tình huống Hóa Kị xung, thì hai vợ chồng đều cần phải hết sức cẩn thận để điều chỉnh ứng xử cho phù hợp. Phàm là các cung lục thân Hóa Kị đến Xung, tức là chủ về sự vô duyên giữa ta với cái cung lục thân của ta mà bị Hóa Kị đến xung. Cái được gọi là “lục thân”, tức là chỉ 6 cung gồm Mệnh cung, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Phụ Mẫu, Nô Bộc.

Tỷ như trong mệnh bàn C* thì Thiên can cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Thiên Di của ta. Đối với cung Mệnh của ta mà nói, chính là tạo thành góc độ “Xung” của tình thế mà cung Phu Thê hóa Kị đến “xung” cung Mệnh của ta (“xung” lại chính là ý nghĩa của “Hóa xuất”) tức là có ý rằng “Thoát ly; Chia rẽ”. Có thể giải thích theo ý nghĩa rộng ra là vợ chồng vô duyên. Lấy cung Mệnh gốc mà nói, thì chính là vợ chồng gần nhau ít mà xa cách thì nhiều, hoặc là ám chỉ không cách nào giữ được yên ấm ở trong nhà.




Nếu như, cung Mệnh hóa Kị nhập vào cung Quan Lộc (còn gọi là cung Sự Nghiệp) xung cung Phu Thê. Đối với cung Mệnh ta mà nói, hóa Kị nhập cung Quan Lộc chính là ta quan tâm sự nghiệp, còn đối với cung Phu Thê mà nói, do ta hết lòng vì sự nghiệp mà lạnh nhạt với đối phương. Cho nên kiểu vô duyên này cũng không phải là mang ý nghĩa sinh ly tử biệt, mà mang ý nghĩa gần nhau ít và xa cách nhiều, đối phương phần lớn là thích ứng với loại sinh hoạt kiểu đó. Nhưng nếu là cung Phu Thê của Đại Hạn, của Lưu Niên đều hình thành cục thế “xung” dạng này thì cần phải đặc biệt lưu ý, bởi vì vợ chồng nhất định sẽ sinh ra trạng thái “Chia lìa”.

Nếu như Khoa tinh và Kị tinh đồng cung, thì hung lực của Kị tinh sẽ bị Khoa tinh hóa giải. Cho nên có cái thuyết pháp “Khoa Kị không kị”, do đó cung Phu Thê có Kị tinh tọa thủ thì rất mừng có Khoa tinh đến để giải cứu vì có thể vượt qua cửa ải khó. Nếu như cung Phu Thê có Khoa tinh tọa thủ, và có Kị tinh xung đến thì Khoa tinh của cung Phu Thê đó cũng có năng lực hóa giải Kị xung, nhưng thời gian hiệu lực một khi đã qua đi thì cát lực của Khoa tinh sẽ tiêu mất. Nếu như có thể nắm được phạm vi hàm chứa hiệu lực tốt đẹp của Khoa tinh để mà điều hòa thích hợp cuộc sống vợ chồng, thì cũng có thể cứu vãn nguy cơ hôn nhân. Tương tự, Hóa Khoa và Hóa Kị là không phải do cùng 1 sao hóa thành, thì ý nghĩa phiền toái dây dưa, là chẳng có cách nào hóa giải hung tính của Hóa Kị.

Rốt cuộc sao Hóa Khoa có thời gian hiệu dụng là bao lâu? Trước hết cần phải biết sao Hóa Khoa đó là từ Mệnh gốc, Đại Hạn hay Lưu Niên hóa thành. Nếu là từ Can năm sinh hóa thành thì thì hữu hiệu cả một đời, nếu từ Can cung Mệnh gốc hóa thành thì có thời gian hữu hiệu là 1 năm, nếu được hóa thành từ Đại Hạn thì thời gian hiệu lực là 1 tháng.

Trên đây đều là các khả năng phát sinh biến động hôn nhân.
Những giải thích trước đây, thích hợp với việc suy đoán Đại Hạn và Lưu Niên, nhưng mà lại còn có 1 loại tình huống cũng rất nghiêm trọng, tham khảo lá số D bên dưới:


*[cung Phu Thê của Đại Hạn] can Ất khiến Thái Âm hóa Kị ở cung Quan Lộc gốc, xung tới cung Phu Thê gốc, gọi là « đồng loại tương xung ».
* Chú ý, cung Phu Thê gốc bị xung tới sẽ dẫn động tính chất các sao tích tụ gây ra họa, cho nên gọi là xung động, bởi vì bị xung đến nên sinh ra biến động, nhưng không nhất định là mang ý nghĩa phá hoại.
* Cái này là mấu chốt khác biệt khi giải thích về « Hóa Khí » và « Tại Số ».


Đại Hạn đã bước vào cung Phu Thê gốc ở Tị, còn [cung Phu Thê của Đại Hạn] chạy đến chỗ cung Tài Bạch gốc ở Mão. Thêm nữa, Thiên can [cung Phu Thê của Đại Hạn] là Ất khiến Thái Âm hóa Kị nhập [cung Quan Lộc gốc] xung [cung Phu Thê gốc] ở Tị cũng chính là [cung Mệnh của Đại Hạn], đây chính là một loại tình huống cực kỳ hung ác.

Trong môn Đẩu Số toán mệnh học, tối kỵ là “đồng loại tương xung”, một khi có loại tình huống này xuất hiện sẽ không tránh khỏi xảy ra chuyện nuối tiếc. Thí dụ như: Người làm kinh doanh, có xuất hiện tình huống mà [cung Quan Lộc của Đại Hạn] xung [cung Quan Lộc gốc] thì phần lớn là sập tiệm, đóng cửa. Có thể liên tưởng, việc xuất hiện tính huống [cung Phu Thê của Đại Hạn] xung [cung Phu Thê gốc] thì quan hệ hôn nhân có khả năng là tan vỡ, nếu có Khoa tinh cứu giải thì có thể bảo toàn, nhưng sự kiện không vui vẫn sẽ sảy đến. Quan hệ vợ chồng thì giữ được nhưng so với trước kia thì liệu có được “thật lòng đối đãi” hay không? Rất khó nói. Cho nên Khoa tinh lại có ý nghĩa trì hoãn, khi đi qua một cái Đại Hạn khác, nếu vận hạn xấu thì cũng có thể chia lìa.

Trong khi luận đoán cát hung của hôn nhân thì cần phải đem lá số của cả hai người mới có thể kết luận chính xác được.

Bây giờ xin mời xem ví dụ đoán mệnh với Mệnh bàn E:


1, cung Quan Lộc gốc có Hóa Kị năm sinh tọa thủ, lại Tự hóa Kị, hình thành Song Kị xung tới Phu Thê gốc.
2, cung Phu Thê gốc (Cự Môn) bị Quan Lộc gốc Tự hóa Kị xung tới thì mang ý nghĩa bị biến động.
3, [cung Phu Thê của Đại Hạn] hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], khiến cho trở thành cả cung Phu Thê gốc lẫn cung Phu Thê của hạn đều có xung động, cho nên nhất định sẽ có biến động.
4, khi Lưu Niên 33t đi vào cung Phu Thê gốc (ở Tuất) bị 2 Kị của cung Quan Lộc gốc xung tới. Trong khi [cung Phu Thê của Lưu Niên] khiến Thái Dương hóa Kị xung [cung Phu Thê của Đại Hạn], năm Tuất này suýt ly hôn, nhưng do [cung Phu Thê của Lưu Niên] có Hóa Khoa tọa thủ nên trì hoãn được 1 năm.

Trình tự các bước luận mệnh:

Đầu tiên cần xem tổ hợp sao tọa thủ ở trong các cung vị tương quan của cung Mệnh gốc và trạng thái phân bố của Tứ Hóa theo Can cung bay đến để mà định ra cách cục Tiên thiên.

1, Tính chất sao ở cung Mệnh: cung Mệnh gốc có các sao Thiên Lương Thiên Hình tọa thủ cho nên vốn đã có xu hướng nghiêng cô độc, trong phú văn của tiên hiền có nói “Thiên Cơ Thiên Lương hội Thiên Hình, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô” (nghĩa là: Cơ Lương hội hợp Thiên Hình, trẻ thì hình khắc già thì cô đơn). Hơn nữa, tam phương hội nhập các sát tinh Kiếp, Không, Hỏa, Linh càng làm tăng khuynh hướng cô độc, tạo thành nguyên nhân cô độc rất nhiều nhưng toàn là đều thuộc về những hiện tượng như Vợ con ly tán, Anh em vô tình, Bạn bè vô nghĩa.

Cung Phu Thê có Cự Môn tọa, chủ về vợ con thuở thiếu thời lắm tai nhiều nạn, tới lúc trưởng thành thì vừa cần cù vừa giỏi giang, chủ nắm giữ mọi việc lớn nhỏ trong nhà khiến cho đương số rảnh rỗi. Nhưng mà cũng vì bản thân rảnh rỗi mà đi tương trợ bạn bè và lạnh nhạt với vợ cho nên mới sinh ra tranh cãi. Do rất phù hợp với những công việc chủ về mồm miệng như Giáo dục, Công tác chuyên môn, nên đem tính chất mồm miệng thị phi của sao Cự Môn để phát huy trong sự nghiệp, thì có thể giảm bớt chuyện vợ chồng tranh cãi. Nhưng tam phương hội nhập có các sát tinh Thiên Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh cho nên ăn ở với nhau rất không hòa thuận.

Sau đó là xem những ảnh hưởng của Tứ Hóa.

2, Tứ Hóa của Lá số gốc:

Hóa Kị năm sinh rơi vào cung Quan Lộc, mà cung Quan Lộc là đối cung của cung Phu Thê, lúc này hung tính của Hóa Kị năm sinh sẽ ảnh hưởng đến cung Phu Thê, được gọi là “xung Phu Thê”. Như vậy, Kị tinh ở Quan Lộc có ý nghĩa gì đây? Nó đại biểu cho người này rất coi trọng sự nghiệp, đem tâm tư đặt vào công việc mà xao lãng gia đình. Tuy rằng như vậy, nhưng mà về mặt gặt hái được thành quả trong sự nghiệp cũng không phải là rất lý tưởng, khiến cho một nửa kia sẽ càng tăng thêm sầu oán.

Cung Mệnh can Mậu khiến Thái Âm hóa Quyền và Thiên Cơ hóa Kị xung Phúc Đức. Mà cung Phúc Đức lại là [cung Quan Lộc của cung Phu Thê] - lấy cung Phu Thê làm cung Mệnh thì cung Phúc Đức chính là cung vị [Quan Lộc của cung Phu Thê] (lập Thái Cực). Mà cung Quan Lộc vốn đại biểu cho hành vi, bị Hóa Quyền và Hóa Kị xung tới, trước đây đã nói qua về Quyền Kị đồng cung có ý nghĩa xung khắc không hợp, nay cung Mệnh hóa Quyền Kị tới xung đến Phúc Đức của ta, thì đương nhiên mối quan hệ đối đãi của vợ chồng sẽ nhất định không tốt.

Cung Phu Thê can Bính khiến Thiên Đồng hóa Lộc tại cung Quan Lộc, vừa vặn gặp Kị tinh của năm sinh, cho nên tạo thành song Kị xung ngược về cung Phu Thê, hôn nhân trắc trở là khó tránh khỏi.

3, Tứ Hóa của Lá số Đại Hạn:

Đại Hạn (26-35 tuổi) trên cung Mậu Dần, là can Mậu của cung Mệnh gốc hóa Thiên Cơ thành Kị xung tới [cung Mệnh của Đại Hạn], cho nên hạn này sẽ có bạo phát trong vấn đề đối đãi vợ chồng. Lại nói về [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Mậu Tý, cũng làm Thái Âm hóa Quyền và Thiên Cơ hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Cho nên có thể xác định chắc chắn Đại Hạn này sẽ sảy ra chuyện. Lại thấy [cung Phu Thê của Đại Hạn] trùng điệp với cung Mệnh gốc, tính chất sao biểu hiện là cô độc, đem hai điều này đối chiếu nhau đã hiện rõ dấu hiệu vậy.

4, Lưu Niên:

Bây giờ muốn tìm ra năm nào sẽ phát sinh sóng gió? Vốn [cung Thiên Di của Đại Hạn] chính là cung Tài Bạch gốc, có Khoa tinh của năm sinh, cho nên lực lượng của Kị tinh phải ở ngoài phạm vi ảnh hưởng của Khoa tinh thì mới sẽ phát huy tác động. Như đương số trong khoảng 26-32 tuổi thì không ứng vấn đề. Nhưng khi 33 tuổi thì [cung Mệnh của Lưu Niên] ở tại cung Bính Tuất, cung [Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Giáp Thân. Can Giáp khiến Thái Dương hóa Kị xung tới [cung Phu Thê của Đại Hạn], khớp với điều kiện “đồng loại tương xung”. Nhưng [cung Phu Thê của Lưu Niên] vẫn có Hóa Khoa của năm sinh bảo vệ, cho nên năm này sẽ trì hoãn lại. Chờ tới năm 34 tuổi, [cung Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Ất Dậu, lực lượng của Hóa Khoa năm sinh đã không có hiệu lực bảo vệ cung Phu Thê, mà lại có can Ất khiến cho Thái Âm hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Cho nên rốt cuộc năm 34 tuổi ấy chia tay, mặc dù Tử Vi tự Hóa Khoa, nhưng Lưu Nguyệt vừa đi qua, thì Khoa tinh hết hiệu lực bảo vệ. Dĩ nhiên, Tự hóa Khoa chính là mang ý nghĩa phát tán tản ra, nên lực lượng Hóa Khoa này là yếu.

Đương số này chính là vì chuyện đứa con trai độc nhất qua đời mà chia tay, quý vị độc giả có thể nhìn cung Tử Tức của người này, cung Tử Tức gốc ở cung Ất Dậu, can Ất khiến Thái Âm hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], còn [cung Tử Tức của Đại Hạn] ở cung Đinh Hợi, can Đinh khiến Cự Môn hóa Kị nhập cung Phu Thê gốc, đến lúc Lưu Niên tiến vào cung Tuất gặp phải Kị tinh được hóa đến từ [cung Tử Tức của Đại Hạn]. Trong khi [cung Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Thân lại cũng có hóa Kị tới từ cung Tử Tức gốc. Vì vậy, đương nhiên là do có chuyện liên quan đến con cái mà khiến cho tình cảm vợ chồng chuyển biến xấu đi mà dẫn tới ly hôn.

Ví dụ F: Lại từ mệnh bàn F để nói rõ nguyên tắc suy đoán của Tứ Hóa cung Phu Thê gốc, cung Phu Thê của Đại Hạn:


* cung Phu Thê gốc cũng khiến Thiên Cơ hóa Kị nhập [cung Phu Thê của Đại Hạn]. Từ các sao tọa thủ trong cung Phu Thê gốc có Thái Dương, Quyền, Kình, Kiếp, đã thấy là thường có hôn nhân không tốt đẹp.
* [cung Phu Thê của Đại Hạn] khiến Thiên Đồng hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Tổ hợp sao tọa thủ ở [cung Phu Thê của Đại Hạn] có Thiên Cơ, Diêu, Thiên Không, lại hội chiếu từ Tam hợp phương về có Đà La, Hỏa Tinh, đều là các sát tinh cho nên vợ chồng xung đột.
* Từ cung Phu Thê gốc có Quyền lại mang can Mậu khiến Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Mệnh gốc, rồi cung Mệnh gốc lại nhân can Canh khiến Thái Dương hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc. Đây là dạng Ngã cung hóa Lộc cấp cho Tha cung, mà Tha cung lại từ chối và cấp ngược lại Hóa Kị cho Ngã cung. Chính là mối quan hệ đối đãi không công bằng. Đối phương có Hóa Quyền có ý định áp bức, cho nên là bị chồng bạo hành mà dẫn đến việc ly hôn.


1, Tính chất tổ hợp sao:
Cung Mệnh gốc có các sao Thiên Cơ, Thiên Diêu, nữ mệnh xinh đẹp và rất có duyên với người khác giới, vốn có khí chất văn nghệ. Đáng tiếc tam phương hội nhập về Thiên Không có Hỏa Tinh và Đà La đều là các sát tinh, dễ có những tư tưởng cực đoan. Thiên Không, Địa Kiếp vốn cách nghĩ là chủ hư ảo không thực tế, người có những sao này nhập mệnh thì cách nghĩ hay tư tưởng thường sẽ không ăn khớp với xã hội hiện thực.

Cung Phu Thê gốc có Thái Dương hóa Quyền tọa thủ cùng Kình Dương, Địa Kiếp, chủ về chồng có cá tính mạnh, không tránh được cãi vã. Trong đó Địa Kiếp, Thiên Không cũng có sự phá hoại rất mạnh đối với tình cảm, thường có sự ngăn trở tình cảm rất khó hiểu. Kình Dương chủ cương cường, trên phương diện theo đuổi tình cảm, đương số là người độc lập tự chủ, theo đó sẽ không hỏi ý kiến người khác, chỉ cần thấy hợp mắt thì cho dù đối phương là kẻ mang tiếng xấu, nàng ta cũng bất chấp bạn bè và người nhà cản trở ra sao, vẫn cùng đối phương ở chung. Nhưng một khi phát hiện đối phương không phải là dạng lý tưởng trong mắt hoặc không cách nào sống chung, nàng ta sẽ lập tức trở mặt chia tay (đây chính là ý nghĩa cung Phu Thê có hóa Quyền tọa thủ). Còn may là ở đây có Thái Dương đồng cung Hóa Quyền, nên chí ít thì đối tượng nàng ta chọn còn có địa vị trong xã hội.

2, Tứ Hóa gốc:
Can Tân của năm sinh hóa Quyền nhập vào Phu cung, chủ về chồng trên phương diện sự nghiệp có biểu hiện tốt, nhưng mà kiểu Thái Dương của giờ Tuất, lúc ấy đã là 7-8 giờ tối rồi nên về cơ bản thì ánh sáng của Thái Dương cũng chẳng còn gì, mờ mịt không sáng. Bởi vậy, cát lực của nó cũng chẳng rõ ràng, có thể thấy rõ hơn về (đối phương) là người khá bá đạo, tư tưởng chiếm hữu rất mạnh, thường tranh cãi vô lý.

Cung Mệnh gốc có can Canh hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc, biểu thị cô này yêu thương chồng. Cung Phu Thê gốc có can Mậu khiến Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Mệnh gốc, không được giống như tình hình mà ta (Ngã) hóa Lộc cấp cho nó (Tha). Ý là ta đối với anh ta tốt, nhưng anh ta trách rằng ta lải nhải lắm chuyện, lộ ra vẻ xem thường sự quan tâm hoặc đối với tình cảm có khao khát về sự hoàn hảo thái quá. Thường rơi vào tình cảnh quan tâm lo lắng đơn phương, mà không được đối phương hồi báo. Do đó, thường chạy theo cái tình cảm trong niềm hy vọng mà không thoát ra được cái trói buộc ở thực tại, tự gây đau khổ và làm tổn thương chính bản thân mình. Lại thêm sao Thiên Không tọa Mệnh cho nên cách suy nghĩ càng thêm hư ảo, không thực tế.

Tượng của phương thức phi Hóa kiểu “cung Mệnh hóa Lộc nhập cung Phu Thê mà cung Phu Thê lại hóa Kị phản nhập lại cung Mệnh” như thế này, chứng tỏ sự quấy rầy lẫn nhau, sống đến bạc đầu vẫn còn tranh cãi, khó mà có nhân duyên tốt đẹp.

3, Tứ Hóa của Đại Hạn:
Đại Hạn (25-34 tuổi) trên cung Canh Dần, thì [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Canh Tý khiến Thiên Đồng hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Trong khi [cung Mệnh của Đại Hạn] cũng là can Canh khiến cho Thiên Đồng tự hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], mà cung này lại chính là cung Phúc Đức gốc, cho nên chứng tỏ quan hệ đối xử giữa vợ chồng ở Đại Hạn này nhất định là không tốt đẹp. Bởi vì từ cung Phu Thê hóa Kị đến xung, nên người chồng là khắc tinh của mình.

Lại xem xét từ những sao tọa thủ ở trong [cung Phu Thê của Đại Hạn] có thể thấy Thiên Diêu ở đây ứng với cái câu “Nếu rơi vào hạn, không cần mai mối, tự mình thành hôn”. Lại gia thêm sát tinh Thiên Không, thì sẽ do đó mà từ chuyện tình cảm có phát sinh những việc bất lợi. Trong mục Chư tinh vấn đáp TVĐS Toàn Thư chẳng phải là đã từng nói tới “Hội hợp ác tinh, phá gia bại sản, vì sắc đẹp mà phạm hình phạt”đó ư? Nhưng mà Thiên can [cung Phu Thê của Đại Hạn] là Canh khiến cho Thái Âm hóa Khoa chiếu tới cung Phu Thê gốc, cho nên từ năm 24 tuổi về trước là còn có thể chịu đựng được sự ngược đãi của đối phương, chờ sau khi cát lực của Khoa tinh biến mất, những trở ngại của gia đình sẽ liền bộc lộ ra.

4, Lưu Niên:
Năm Bính Dần, lúc 25 tuổi thì [cung Phu Thê của Lưu Niên] và [cung Phức Đức của Lưu Niên] đều bị Kị tinh xung phá. Cho nên năm này sau khi bị chồng ngược đãi, đã không chịu được nữa làm đơn tới tòa án để ly dị, vì chuyện này người chồng còn bị cấm xuất cảnh. Sau đó bỏ cả bảo lãnh để mà lẩn trốn, từ đó về sau người chồng này vốn là 1 nam diễn viên chính đã không còn tham gia diễn xuất ở nền điện ảnh của Đài Loan nữa. Các vị có trông thấy Thiên Hình ở [cung Thiên Di của Đại Hạn] không? Đây chính là tinh tú mấu chốt của sự kiện vì mối quan hệ vợ chồng om sòm nên dẫn tới quan tụng thị phi. Liệu những môn Mệnh lý học khác có thể từ trên mệnh bàn để nhìn ra những triệu chứng rõ ràng như vậy không?

Hình ảnh của hiện tượng “Lộc khứ Kị lai” (Lộc đi Kị đến) được hiện ra thông qua cung Mệnh gốc và cung Phu Thê gốc, lại còn thêm Hóa Quyền năm sinh tọa thủ ở cung Phu Thê gốc, cho nên đối với chuyện tình cảm là có ý nghĩa “tự mình chủ trương, tự mình nắm giữ, tùy ý mình”. Cộng thêm cung Mệnh gốc có Thiên Không tọa thủ thì rất dễ sinh ra tình trạng tình yêu đơn phương hoặc đối với chuyện tình cảm thì không có được sự thực tế.

Hậu chú:
Ví dụ F chính là lá số của tiểu thư họ Đới một ngôi sao điện ảnh, kết hôn cùng diễn viên Hương Cảng, không lâu sau liền ly dị, lúc ấy tạo thành một scandal lớn. Sau đó, ở Đài Loan lại tái kết hôn và lại ly dị, rồi tái giá với một bác sĩ người Nhật Bản. Năm Dân Quốc thứ 81 (1992) lúc người chồng cũ ở Đài Loan chạy tới Nhật, giết người chồng Nhật Bản của nàng, lại tạo thành một scandal lớn tại Nhật Bản.

Suy đoán vấn đề ngoại tình

Muốn suy đoán vấn đề ngoại tình, trước tiên cần xác định xem vấn đề ngoại tình tương quan với các cung vị nào, thì mới có thể có chỗ căn cứ vào mà suy luận. Nếu như không thể lựa ra được những cung vị tương quan với vấn đề ngoại tình từ trên 12 cung của lá số, thì làm sao có thể suy đoán được việc ngoại tình chứ. Đây chính là vấn đề Lập Hướng, ở biển rộng mênh mông có la bàn lập hướng thì ở trong Tử Vi Đẩu Số việc giải lá số cũng phải lập hướng thì mới không bị lạc đường. Mà cái việc Lập Hướng của Tử Vi Đẩu Số chính là có sự liên quan mật thiết với những yếu tố tương quan đến việc phát sinh ra sự kiện ở trong thực tế.

Lấy vấn đề ngoại tình mà nói, thì cung Phu Thê phát sinh liên can đến bạn bè, cho nên suy đoán việc ngoại tình thì trước hết coi trọng cung Nô Bộc và cung Phu Thê. Đương nhiên đối tượng ngoại tình còn có khác biệt về những loại đối tượng đã kết hôn và chưa kết hôn, bạn đọc cũng có thể theo loại này để mà suy rộng ra những cung vị tương quan đối ứng với chúng. Còn vấn đề bị bạn bè bán đứng thì những cung vị tương quan hiển lộ ra ở cung Nô Bộc và cung Quan Lộc, v.v…

Cho nên việc luận đoán lá số không thể chỉ nhìn 1 cung vị có nguyên cớ chính là điểm này. Chỉ có thể thông qua Tứ Hóa mới có thể liên kết cặp cung vị mà sinh ra sự liên đới nào đó tới nhau. Trong lúc luận giải lá số Tử Vi mới có thể căn cứ sự liên đới đó để mà phân định xem cát hung và lực ảnh hưởng mạnh yếu giữa cặp cung ấy.

Bây giờ liền đưa ra một số ví dụ ngoại tình để phân tích xem.

Ví dụ G: Ngoại tình
Lá số gốc:
Mệnh ở cung Mậu Thân có Thái Dương và Cự Môn hóa Kị tọa thủ, chính là cách Cự Nhật đồng cung. Ở cung Thân thì Thái Dương đã gần tới hoàng hôn, ánh sáng suy giảm vô lực, chủ về những người trước chuyên cần sau thì lười biếng. Cự Môn là ám tinh chủ miệng lưỡi thị phi, cho nên đương số có năng lực nói hay phân tích mạnh. Nhưng chính là Cự Môn hóa Kị cho nên sẽ có xu hướng phát triển thói xấu tính tiêu cực, thường vì lời nói mà mang tai họa dẫn tới thị phi, như những kiểu ngấm ngầm bới móc ngườu ta, thường đắc tội với người khác vì lời lẽ không khéo léo, liên tục lải nhải luyên thuyên. Loại cách cục này nên rất phù hợp theo những nghề mà phải liên tục nói năng, đem cái tính chất tiêu cực của việc nói nhiều mà tiêu hao bớt đi ở nơi làm việc, mới có khả năng giảm bớt thị phi trong gia đình.



Cung Phu Thê gốc:
Cung Phu Thê gốc tọa thủ các sao Thiên Đồng, Thái Âm gia thêm sát tinh có thể nói là cách “mã đầu đới tiễn”, cho nên đối tượng kết hôn thuộc về bên quân cảnh, thuyền viên, phi cơ viên, đại ca xã hội đen,… bởi vì tính chất công việc thường xuyên đi ra bên ngoài, hiếm khi được ở nhà (điều kiện P). Lại có thêm Lộc, Quyền của năm sinh xâm nhập đồng cung, có ý nghĩa đa tình, cảm tình dào dạt quá mức. Cho nên cung Phu Thê gốc đã có tiềm ẩn dấu hiệu đa phu rồi.



Cung Nô Bộc gốc:
Lại xem cung Nô Bộc gốc ở cung Quý Sửu, như trước đã nói Tứ Hóa là dùng để xâu chuỗi trung gian môi giới của các mối quan hệ tương hỗ giữa các cung vị khác nhau. Ngoại tình chính là có mối quan hệ giữa cung Nô Bộc và cung Phu Thê.

Còn mối quan hệ gữa hai cung vị, thì phải dựa vào Can cung Nô Bộc là Quý để mà phi Tứ Hóa như sau:
Phá Quân hóa Lộc nhập cung Tật Ách gốc.
Cự Môn hóa Quyền nhập cung Mệnh gốc.
Thái Âm hóa Khoa nhập cung Phu Thê gốc.
Tham Lang hóa Kị nhập cung Huynh Đệ gốc.

Ái chà, như vậy là cung Nô Bộc gốc và cung Phu Thê gốc kết hợp lại rồi, có một ngôi Thái Âm hóa Khoa nhập cung Phu Thê gốc, nhưng Hóa Khoa chẳng phải là vốn có tác dụng quý nhân hoặc gặp dữ hóa lành hay sao?

Đây là do mê muội vì không hiểu tính chất Tứ Hóa, cho rằng Lộc - Khoa - Quyền đều là hiện ra cát tường và Kị thì toàn là chủ hung khắc, đó là quan niệm không chính xác. Về hàm nghĩa của Tứ Hóa, xin mời tham khảo các chương tiết liên quan đã từng thuyết minh. Tại đây thì mời bạn đọc lật tới “Hàm nghĩa của Hóa tinh theo 10 Thiên Can”. Đã chú rõ Thái Âm can Quý hóa Khoa có mang tính chất đào hoa, rất rõ ràng, giữa cô nàng và bạn bè sẽ phát sinh vấn đề đào hoa.

Lại đem những dấu hiệu hiển lộ giữa 2 cung vị là cung Phu Thê và cung Nô Bộc kết hợp lại để mà xem. Đương số này hẳn là sẽ phát sinh vấn đề ngoại tình. Đây là từ Mệnh bàn gốc mà phân tích ra những đặc tính của mệnh cách, sau đó cần phải luận đoán vận thế, đó chính là thời gian phát sinh.

Đại Hạn và Lưu Niên:
Khi đi tới Đại Hạn ở cung Canh Tuất thì [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Mậu Thân có các sao Thái Dương, Cự Môn hóa Kị, mà can Mậu thì phát xạ Tứ Hóa:
Tham Lang hóa Lộc nhập Huynh Đệ (là [cung Huynh Đệ của Đại Hạn]. QNB chú: chỗ này sách có nhầm lẫn, đúng ra là Tham Lang hóa Lộc ở [cung Tử Tức của Đại Hạn])
Thái Âm hóa Quyền nhập Phu Thê (là [cung Tài Bạch của Đại Hạn])
Hữu Bật hóa Khoa nhập Nô Bộc (là [cung Điền Trạch của Đại Hạn])
Thiên Cơ hóa Kị nhập Phúc Đức (là [cung Phụ Mẫu của Đại Hạn])

Trong đó, Thái Âm hóa Quyền nhập cung Phu Thê gốc đại biểu cho năng lực tự chủ của cá nhân đối với thế giới tình cảm được tăng cường. Hữu Bật hóa Khoa nhập cung Nô Bộc gốc cũng chứng tỏ ở Đại Hạn này giữa nàng ta và bạn bè có phát sinh một vài liên hệ. Lại thêm Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Phúc Đức gốc, vừa khéo cung Phúc Đức gốc lại là [cung Mệnh của Đại Hạn]. Cung Phúc Đức vốn chủ trạng thái tinh thần, bị Hóa Kị của [cung Phu Thê của Đại Hạn] nhập tới dẫn động nên có sự không ổn định, hàm ý là sự quấy nhiễu. Giải thích theo nghĩa rộng là tình cảm phức tạp rối ren. Cộng thêm hiện tượng [cung Mệnh của Đại Hạn] lại hóa Thiên Đồng thành Kị nhập vào cung Phu Thê gốc. Đem mối quan hệ giữa hai điều này này liên kết lại với nhau, cung Phu Thê gốc vì chịu hung tính của Thiên Cơ hóa Kị; còn [cung Phu Thê của Đại Hạn] có Cự Môn hóa Kị năm sinh tọa thủ cũng đã có ý nghĩa chuyện tình cảm “ám muội không rõ ràng”.

Lại xem [cung Nô Bộc của Đại Hạn] ở cung Quý Mão, can cung là Quý khiến cho Thái Âm hóa Khoa nhập vào cung Phu Thê gốc. Như vậy, chỉ cần tới năm Lưu Niên lại hóa một ngôi Khoa tinh nữa đi vào đó thì sẽ hiển lộ ra sự kiện. Đương số bất hạnh này ở năm Nhâm Tuất vẫn ở trong Đại Hạn cung Canh Tuất, 3 tầng năng lượng đào hoa từ can Quý hóa Thái Âm thành Khoa tinh cộng dồn vào người. Làm sao có thể chịu nổi cảnh phòng không lẻ bóng? Còn thêm [cung Phu Thê của Đại Hạn] can Mậu hóa Thiên Cơ thành Kị tinh vừa khéo nhập vào [cung Mệnh của Lưu Niên] năm Tuất 26 tuổi. Tác động Tứ Hóa tổng hợp từ cung Nô Bộc và cung Phu Thê, có thể quy nạp lại mà đưa ra sự kiện “Ngoại Tình”. Kết quả là vào năm Nhâm Tuất vượt rào đi theo tình lang.



Nếu mà nói điều kiện tiền đề P không thành lập, thì liệu có xảy ra kết quả ngoại tình hay không? Câu trả lời là không nhất định, nếu như anh chồng thường xuyên ở nhà, để cho cái tâm hồn cô quạnh có nơi nương tựa, thì sẽ không phát sinh kết quả vượt rào. Nếu anh chồng có ở nhà, thì chỉ là mối quan hệ của vợ chồng khá lạnh nhạt mà thôi. Nếu không thì ở Đài Loan chí ít cũng phải có đến 34 cô mà có chung lá số với cô này, không lẽ cũng đều “vượt rào” cả ư? Trên thực tế không hề có chuyện đó, bởi vì đối tượng kết hôn (không gian) là khác nhau.

Quan niệm Tứ Hóa phi Tinh của người viết và quan điểm của mọi người có thể khác nhau nhiều. Tôi cho rằng, giải thích cát hung của 3 ngôi Hóa cát và của Kị tinh, thì cần phải căn cứ theo vấn đề (góc độ xem mệnh, tức là vấn đề Lập Hướng) mới phân chia được cát hung. Chứ không phải là từ trên ý nghĩa con chữ của Tứ Hóa để phân chia cat hung. Đây là quan niệm vô cùng trọng yếu, như ví dụ luận mệnh này, cung Phu Thê tọa Hóa Quyền, Hóa Lộc chẳng phải rất tốt sao? Không! Đây tuyệt đối là kết cấu Tứ Hóa không tốt, cung Tài Bạch mà có kết cấu đó thì dĩ nhiên rất tốt, bởi vì tài nguyên nhiều mà. Nhưng đối với cung Phu Thê mà có cái kết cấu ấy thì lại biểu thị đa phu đa thê. Thời xưa nam mệnh có thể tam thê tứ thiếp, thời hiện đại thì lại là tội vi phạm luật hôn nhân, cũng không thể có nhiều người phối ngẫu. Nữ mệnh lại càng khỏi phải nói, có người đàn ông nào mà lại chịu được cảnh “đầu đội mũ xanh” cơ chứ? (nghĩa là vợ theo trai, hoặc người bảo kê cho kỹ viện hồi xưa thì đầu đội mũ xanh hoặc chít khăn xanh trên đầu. Lệ của thời cổ đại để mọi người phân biệt giai cấp). Cho nên, trong vấn đề này không thể lấy Quyền Lộc mà luận là cát được.

Lại nói cung Nô Bộc hóa Khoa nhập cung Phu Thê đại biểu giữa 2 cung vị đã có tác động liên kết ở một mức độ nào đó. Mức độ liên kết mạnh hay yếu là thuộc về cấp độ “Hóa Khoa”. Bởi vì Thái âm hóa Khoa của can Quý có tác dụng đào hoa, cho nên sau khi xem kỹ “tổ hợp sao tọa thủ, các Hóa tinh” của cung Phu Thê gốc và tác động liên kết Tứ Hóa giữa “cung Phu Thê – cung Nô Bộc” thì liền có thể biết được là đã có gieo tượng ngoại tình rồi.

Ví dụ H: Ngoại Tình
Bây giờ tôi lại đưa ra một ví dụ luận mệnh nữa (ví dụ H) các bạn đọc suy luận xem rốt cuộc cô ta xảy ra chuyện gì? Vào lúc nào? (tác giả chú: là về vấn đề tình cảm).

Nhìn cẩn trọng một chút thì lá số này cùng lá số trước tương tự, chẳng qua là chỉ có các Chính Tinh đổi chỗ cho nhau, các cung nhân sự ở vị trí khác nhau mà thôi.



1, Cung Mệnh gốc và cung Phu Thê gốc:
Từ trên mệnh bàn, Lộc tồn độc thủ tại cung Mệnh, ở trong mục Chư Tinh Vấn Đáp có nói: “Nếu độc thủ tại Mệnh mà không có cát hóa, chính là kẻ keo kiệt ủn xỉn mà thôi, gặp cát tinh thì hiện ra quyền lực của nó, ngộ ác tinh thì hỏng mất tín hiệu của nó, rất sợ lạc hãm ở chô Không Vong do không còn là phúc, có thêm các sát tinh Hỏa Linh Không Kiếp tụ tập thì chỉ làm nghề thủ công mới được yên thân”. Vừa khéo ở cung Thiên Di có Hỏa Tinh hội nhập, chính là thật ứng câu này. Lộc Tồn thiếu đi sao bảo vệ hộ trì để cát hóa mà lại có Hỏa Tinh xung kích, đương nhiên là càng gia tăng bản tính cô khắc.

Tam phương Tứ chính của cung Mệnh gốc đã phù hợp điều kiện này, lại xem tới tổ hợp sao tọa ở cung Phu Thê gốc có Thiên Cơ, Thiên Lương hóa Khoa, Thiên Hình; Ở trong phú văn nói nói “Thiên Cơ, Thiên Lương hội Thiên Hình, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô” (nghĩa là: Cơ Lương tụ hội Thiên Hình, trẻ thì hình khắc già thì cô đơn), đối với cung Phu Thê mà nói, đây chính là tổ hợp mang tính cô khắc.

Từ tổ hợp tinh diệu và Tam hợp phương của cung Mệnh gốc và cung Phu Thê gốc, có thể nhận ra mệnh cục của người này chính là kẻ keo kiệt bủn xỉn kiêm cô độc.

Còn như hiện tượng “Hình” và “Cô”, cũng không phải là đem gói gọn trong ý nghĩa của việc hình khắc vợ chồng, mà nó còn bao gồm nhiều hàm nghĩa:
- Phương pháp tu luyện nào đó, sẽ lãnh đạm đối phương trở thành sống quá bụa.
- Vì phạm pháp mà bị truy nã, quanh năm lẩn trốn ở ngoài, khó được xum họp.
- Cá tính không hợp, đối với nhau như kẻ thù.
- Bị tai nạn bất ngờ, chức năng vận động của thân thể kém hoặc quanh năm bệnh tật.
- Bỏ nhà ra đi.
Đều phù hợp với ý nghĩa của “Hình”, “Khắc”.

2, Cung Nô Bộc gốc:
Lại xem cung Nô Bộc gốc ở tại cung Ất Hợi, can Ất khiến Tứ Hóa:
Thiên Cơ hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc.
Thiên Lương hóa Quyền nhập cung Phu Thê gốc.
Tử Vi hóa Khoa nhập cung Huynh Đệ gốc.
Thái Âm hóa Kị nhập cung Thiên Di (tức, xung cung Mệnh gốc).

Trong đó, Thiên Cơ hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền nhập cung Phu Thê gốc biểu thị cung Phu Thê và Nô Bộc có quan hệ, hơn nữa loại quan hệ này vô cùng mãnh liệt, thuộc dạng cường độ ở mức “Hóa Lộc” và “Hóa Quyền” cũng chính là biểu hiện mệnh cách ngoại tình.

Tới cung Mệnh gốc để mà luận, người này thuộc cách cục cô khắc, nhưng mối quan hệ của cung Nô Bộc và cung Phu Thê lại lộ ra rằng thế giới tình cảm phong phú nhiều sắc thái. Giữa hai điều này có chỗ mẫu thuẫn lẫn nhau, nên cần phải chú ý. Chẳng qua là từ cái ví dụ trước cũng do cung Nô Bộc hóa Khoa phi nhập cung Phu Thê tạo thành việc ngoại tình của người trong cuộc, đương số này cũng phải ứng vào cách cục ngoại tình mới đúng. Đương số này vốn có được gia đình mỹ mãn, chồng là doanh nhân chân chính, cả ngày bận rộn với công việc, lãnh đạm với ái thê. Đương số không cam chịu cảnh tịch mịch nên “hồng hạnh xuất tường”, bỏ nhà ra đi ở chung cùng với người tình, khi người tình chán ngán đã bỏ nàng đi, muốn quay về nhà chồng cũ, nhưng người nhà cùng thân thích chỉ trích nhiều quá, làm cho cô ấy không có mặt mũi nào trở về, đành phải thuê nhà sống một mình, phù hợp với điều kiện “Cô”.

3, Vận trình Đại Hạn:
Rốt cuộc thì làm thế nào để suy đoán vận trình? Lúc đi tới Đại Hạn trên cung Nhâm Thân, thì [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở chỗ cung Canh Ngọ có Lộc Tồn tọa thủ, can Canh khiến Thiên Đồng hóa Kị nhập [cung Quan Lộc của Đại Hạn] là dạng "hóa xuất Kị" đại biểu tình trạng ở Đại Hạn này thì tình cảm vợ chồng có sự trôi đi mất.



[cung Nô Bộc của Đại Hạn] ở cung Đinh Sửu, can Đinh khiến Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền tại cung Tý chiếu về [cung Phu Thê của Đại Hạn], còn sao Cự Môn hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]; cũng chứng tỏ rằng [cung Nô Bộc của Đại Hạn] sẽ cùng với Phu Thê của ta sảy ra một ảnh hưởng liên tiếp nào đó. Hơn nữa, bởi vì là Cự Môn hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], mà sao Cự Môn chủ ám muội bất minh cho nên chính là mối quan hệ sống chung với nhau mà thôi.

Từ kết cấu Hóa Kị phân bố theo [cung Phu Thê của Đại Hạn] và [cung Mệnh của Đại Hạn] trên lá số để mà xét, Đại Hạn ấy sẽ phát sinh vấn đề tình cảm, hình thái của vấn đề tình cảm này đã từ lá số gốc gieo tượng “Ngoại tình” rồi.

4, Vận trình Lưu Niên:
Lúc 28 tuổi, cung Nô Bộc gốc phi xuất Hóa Lộc và Hóa Quyền nhập [cung Mệnh của Lưu Niên], còn [cung Nô Bộc của Đại Hạn] phi xuất Hóa Lộc và Hóa Quyền vào cung Thiên Di gốc chiếu cung Mệnh gốc. Khiến cho khi đi ra bên ngoài rất vui vẻ náo nhiệt, bạn trai quan tâm yêu thương, cho nên nàng đối với người chồng chỉ lo sự nghiệp mà lãnh đạm với mình có sự rạn nứt, tâm lý nhất thời không kiềm được nên ngoại tình. Cho tới hiện giờ ông chồng thật thà thỉnh thoảng vẫn còn giúp đỡ về kinh tế cho cô. Đây chính là duyên cớ của hiện tượng ở cung Phu Thê có sao Thiên Lương hóa Khoa tọa thủ.

Tổng kết:
Phân tích sóng gió của chuyện tình cảm thì nhất định cần phải nắm được những yếu tố tạo thành sóng gió hôn nhân ở trong sinh hoạt thực tế. Rồi lại tìm ra trong lá số những cung vị đối ứng với các yếu tố đó để suy đoán. Khi suy đoán thì phân chia các tầng lớp kết của Tứ Hóa từ Lá số gốc đến các Vận trình, cũng như là đối với tổ hợp các sao tọa thủ ở trong các cung vị. Không được coi nhẹ bất kỳ một bước nào. Phải trải qua từng tầng lực ảnh hưởng của Tứ Hóa tăng mạnh lên mới có thể khiến cho sự kiện hiện ra. Nếu như 1 tầng mà không có mối liên hệ tới lực tác dụng của sự cấu thành tổ hợp tinh tú và Tứ Hóa, thì sẽ không có cách nào thôi thúc để mà phát sinh ra sự kiện.

Mấy ví dụ được đưa ra trong chương này để thảo luận thì thường thấy hình thái của hôn nhân gặp sóng gió là: bạo lực gia đình, nuôi dạy con cái, ngoại tình. Từ đó có thể phát hiện, sự bạo lực gia đình có thể từ Tứ Hóa và các tinh tú trong cung Phu Thê hiển hiện ra, việc nuôi dạy con cái đưa đến sóng gió hôn nhân thì cũng có thể từ cung Phu Thê và cung Tử Tức biểu hiện ra dấu hiệu. Nhưng việc ngoại tình thì có rất nhiều loại yếu tố hình thành, nhưng ở trong sự suy luận của Tử Vi Đẩu Số thì chủ yếu nhìn 2 cung vị. Thứ nhất là cung Phu Thê, nếu như trong cung Phu Thê có các sao đào hoa tọa thủ thì có thể có xu hướng ngoại tình. Ở mục Chư Tinh Vấn Đáp có nhắc tới nhiều loại ngoại tình: nhiều vợ (nhiều chồng), nhiều chồng nhiều vợ, không thể xem nhẹ. Thứ hai, cung vị cần chú ý đến chính là cung Nô Bộc, chương này đưa ra các ví dụ ngoại tình đều là từ cung Nô Bộc đưa tới (dĩ nhiên 2 cái ví dụ này thì cung Phu Thê cũng có ảnh hưởng tiền ẩn ngoại tình). Có thể thấy tính liên quan giữa chúng là không thể xem thường, đương nhiên, ngoài việc xem xét 2 cung này thì cũng có khác biệt về chủng loại cung tương quan, nhưng mấy thứ này đều thuộc về ví dụ hiếm thấy.

Tóm lại, các cung chủ sự ngoại tình chính là cung Phu Thê và cung Nô Bộc là hai cung chính. Ở trên là các thủ pháp chính để suy đoán hôn nhân sóng gió, trong đó nói đến mấy loại phương thức phi Hóa Kị để bạn đọc coi như là định lý, tự mình áp dụng vào những cung vị khác để suy đoán.


CHƯƠNG 30: LÀM SAO ĐỂ SUY ĐOÁN NĂM NÀO PHÙ HỢP KẾT HÔN

Trong Tử Vi Đẩu Số, sức ảnh hưởng mạnh nhất là 28 ngôi của các sao cấp Giáp, phàm là những người mà có các tinh tú mang tính chất ổn định, ôn nhu, cẩn thận hay là các sao dễ tiếp xúc với những người khác giới như Xương, Khúc, Tử, Phủ, Đồng, Tướng, Âm, Liêm, Tham tọa ở cung Mệnh hoặc cung Phu Thê thì cũng rất dễ dàng tìm được ra tượng. Còn nếu là những người có các sao Cô Quả hay Sát tinh tọa Mệnh hoặc cung Phu Thê thì có xu hướng kết hôn muộn, như Vũ, Sát, Phá, Hình, Lương, Cự, Kình, Đà, Hỏa, Linh, hoặc ở Tam phương hội nhập quá nhiều sát tinh thì cũng luận như vậy.

Ngoài ra cũng còn 2 ngôi sao biểu thị cho việc kết hôn muộn là Tả Phụ & Hữu Bật rơi vào cung Phu Thê, 2 ngôi sao này thường thường là do duyên phận kiếp trước chưa dứt hoặc mải mê sự nghiệp mà quên lãng việc hôn nhân đại sự.

Muốn luận đoán cát hung của cung Phu Thê, nhất định cần phải cân nhắc cung Phu Thê gốc lẫn cung Phu Thê của các vận hạn mới có thể biết được cát hung, đừng có mới chỉ nhìn thấy sát tinh trùng trùng ở cung Phu Thê gốc mà đã hết hồn lo sợ.

Bây giờ chúng ta cùng xem một Ví dụ với hình 1:




Cung Mệnh tại Tý có Liêm Trinh, Thiên Tướng, Thiên Hình, lại có thêm Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Vũ Khúc, Phá Quân là cô quả tinh với sát tinh ở tam phương hội nhập về. Cho nên người này tính cách cô độc không dễ sống cùng người khác giới, có thể lận đoán là kết hôn muộn.

Lấy Tứ Hóa để xem, mặc dù sao Hóa Lộc của năm sinh nhập vào cung Phu Thê gốc chủ nhân duyên tới sớm, thương yêu chồng, nhưng lại là do cung Phu Thê tọa ở Nhâm Tuất khiến cho Vũ Khúc hóa Kị phi tới cung Quan Lộc, chính là “Lưu xuất Kị” (Kị chảy đi) đại biểu cho duyên phận không giữ được, uổng công để cơ hội chạy mất. Lại xem cung Nô Bộc cũng là cách cục “Lưu xuất Kị” cho nên mặc dù ở thời đại học có bạn trai, nhưng cuối cùng cũng không kết thành đôi lứa, lãng phí thời gian kết hôn tới năm Đinh Mão đã 40 tuổi vẫn chưa kết hôn.

Mệnh cục của lá số gốc chính là một phương hướng tổng quát, đại biểu cho những tình huống tổng thể cơ bản về mệnh vận của một con người. Phương hướng tổng quát này sẽ ảnh hưởng sâu tới vận đồ của Đại Hạn và Lưu Niên. Các tiểu cách cục của hạn vận nếu không có nhân tố tăng cường, thì khó có cơ hội kết hôn, nhất là nữ mệnh càng già càng khó kết hôn. Và đối với nhu cầu kết hôn thì càng già sẽ càng suy giảm, chỉ có điều chúng ta có thể từ Tứ Hóa và tổ hợp tinh tú trong [cung Phu Thê của Đại Hạn] để suy đoán, xem rốt cục là khi nào sẽ có hôn nhân.

Trong Tứ Hóa thì lấy lực của Hóa Lộc, Hóa Kị là mạnh nhất. Nhưng chỉ có Hóa Lộc thì không có ích lợi gì, chỉ có hiện tượng hoặc ảo tưởng mà thôi, không cách nào biến thành hiện thực. Nhất định phải có đầy đủ hết 4 ngôi Lộc, Quyền, Khoa, Kị thì mới có thể hoàn thành quá trình trọn vẹn “Ý niệm sơ khởi ---> Kế hoạch ---> Hành động ---> Thu hoạch”.

Dĩ nhiên là luận đoán hôn nhân thì dùng Can của cung “Phu Thê” để phi hóa!

Đa số người hiện đại đều là kết bạn trước rồi mới cưới hỏi, cho nên muốn tra xem năm nào sẽ kết hôn, trước tiên là xem Tứ Hóa của can cung Nô Bộc, có nhập Mệnh hay cung Phu Thê hay không, nếu Hóa Kị xung tới cung Phu Thê thì đa phần là không kết thành đôi được. Nếu không xung tới cung Phu Thê thì lại tra xét Tứ Hóa theo can [cung Phu Thê của Lưu Niên], đều nhập vào tam hợp của Mệnh gốc hoặc đối cung với niên phận, liền có đầy đủ điều kiện kết hôn.


Bây giờ mời xem ví dụ đồ hình 2,



Mệnh ở cung Giáp Tý khiến Thái Dương hóa Kị tại cung Nô Bộc, vì đây là nữ mệnh nên những bạn trai cô ấy kết giao đều không được tốt. Hơn nữa cung Nô Bộc hóa Kị tự xung khiến nhân duyên cô ấy với người khác giới càng ít. Lại thêm Phu Thê ở cung Nhâm Tuất khiến Vũ Khúc hóa Kị tự xung Phu Thê là sẽ là vì mải mê công việc mà quên lãng hôn nhân, hoặc có hiện tượng là cũng có đối tượng theo đuổi nhưng không nắm lấy (vì Vũ Khúc hóa xuất Kị).

Lại xem đến Đại Hạn từ 24-33 tuổi, [cung Nô Bộc của Đại Hạn] ở cung Ất Mão và [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Canh Thân, khiến cho Thái Âm hóa Kị và Thiên Đồng hóa Kị ở trạng thái đối xung nhau trên trục Mão-Dậu. Điều này làm cho khó có đối tượng thuộc dạng “làm bạn trước rồi đi đến kết hôn sau”. Nếu ở trong thời đại mà cha mẹ sắp đặt hôn nhân thì đã có thể sớm ra khỏi khuê phòng, nhưng ở thời hiện đại này tôn trọng tự do yêu đương, cho nên đành phải muộn lấy chồng. Ví dụ này ở trước 33 tuổi e rằng không dễ lập gia đình.

Đến Đại Hạn thứ tư (34-43 tuổi), [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Kỷ Mùi, can Kỷ phi Tứ Hóa: Vũ Khúc hóa Lộc tại cung Quan Lộc gốc, Tham Lang hóa Quyền ở Phu Thê gốc đã biểu hiện mong muốn kết hôn mạnh mẽ. Lại nhìn thêm tổ hợp tinh tú Thiên Cơ, Tả Phụ, Hữu Bật (hóa Khoa), Hỏa Tinh, ở [cung Phu Thê của Đại Hạn] thể hiện ý nghĩa xuất hiện đối tượng “dù chưa hài lòng lắm nhưng cũng hợp ý”. Tới năm Dân Quốc thứ 75 và 77 (tức năm 1986 & 1988), lúc Tứ Hóa của [cung Phu Thê của Lưu Niên] đều nhập vào các cung vị là Mệnh gốc, Phu Thê gốc và Quan Lộc gốc. Vậy ở năm Bính Dần hoặc năm Mậu Thìn có cơ hội kết hôn, nhưng [cung Phu Thê của Đại Hạn] khiến Văn Khúc hóa Kị tại Dậu xung tới cung Mão, năm kết hôn hẳn là sau cái năm Mão đi qua chỗ bị Kị xung thì mới có khả năng, do đó năm kết hôn ứng tại năm Dân Quốc thứ 77 (1988, Mậu Thìn).

Cho nên trong lúc luận đoán mệnh vận, phải có quan niệm Lưu Niên di chuyển, từng năm từng năm thay đổi chỗ, nhìn xem có bị Kị xung đến hoặc là đứng ở chỗ Kị tinh, thì có thể luận đoán năm Lưu Niên xảy ra sự kiện.


CHƯƠNG 31: LÀM SAO ĐỂ SUY ĐOÁN VẬN LƯU NIÊN

* Vận Lưu Niên giao hữu:

Ở trong môn Đẩu Số học cái được gọi là “Tam Tài” Thiên – Địa – Nhân, hiện tượng của “Thiên” sẽ ứng nghiệm ở trong “Nhân”, nhưng phải thông qua môi trường trung gian của “Địa”.




Vận kết giao đối với những người trẻ tuổi ngày nay mà nói, có cực kỳ nhiều cơ hội gặp gỡ giao du, cho nên xem vận kết giao Lưu Niên có thể nắm lấy cung Nô Bộc của năm nay là liền có thể xem được, khỏi cần dùng đến thủ tục đãi lọc 3 tầng Thiên – Địa – Nhân.

Rốt cuộc thì cung Nô Bộc của Lưu Niên năm Mậu Dần (năm 1998) ở chỗ nào?



Lấy ví dụ A: năm Mậu Dần thì [cung Mệnh của Lưu Niên] ở vị trí cung “Dần”, còn [cung Nô Bộc của Lưu Niên] ở tại vị trí cung “Mùi”, 11 cung còn lại thì cứ theo thứ tự mà ghi vào, tức thì thu được [Lá số của Lưu Niên]. Còn [Lá số của Đại Hạn] thì trước tiên phải hỏi xem là bao nhiêu tuổi, nếu là 43 tuổi mà Thổ Ngũ Cục thì ứng với vị trí chỗ của 35-44 tuổi chính là [cung Mệnh của Đại Hạn]. Như trong ví dụ A, vị trí của cung “Mão” chính là [cung Mệnh của Đại Hạn] của anh ấy, 11 cung khác cũng căn cứ theo thứ tự ghi vào, tức thì sẽ được [Lá số của Đại Hạn]. Như vậy, là đã an xong các Lá số của Đại Hạn cũng như của Lưu Niên.

* Ảnh hưởng của các sao Tứ Hóa tới cung Giao Hữu (Nô Bộc):
Đối với những bạn ở trong độ tuổi hôn nhân mà vẫn chưa kết hôn, vấn đề được quan tâm nhất có lẽ chính là vấn đề khi nào thì tình nhân sẽ xuất hiện. Đẩu Số có thể đoán được, nhưng thành đôi lứa hay không thì lại ở sự lựa chọn của bạn. 

* Làm thế nào luận đoán vận kết giao bạn bè năm nay? Xin làm theo quy trình 3 bước như dưới đây:
1, Đánh dấu rõ ra cái [cung Nô Bộc của Lưu Niên]
2, Tìm ra các cung vị mà Tứ Hóa theo Thiên Can [cung Nô Bộc của Lưu Niên] phi nhập vào trong các cung đó.
3, Tìm xem các ngôi Tứ Hóa có tiến nhập vào trong cung Mệnh, Phu Thê, Thiên Di, Quan Lộc hay không? Nếu mà không có thì sẽ không có liên quan tới ta, còn nếu mà có nhập vào các cung vị kể trên thì sẽ phát sinh sự kiện có liên quan tới bạn bè.

Đương nhiên, các tinh tú ở trong [cung Mệnh của Lưu Niên], [cung Thiên Di của Lưu Niên], [cung Nô Bộc của Lưu Niên] trong năm nay đều có liên quan tới bạn bè. Nếu như gặp các cát tinh thì sẽ dễ kết giao được với bạn tốt, còn nếu như gặp các hung tinh thì dễ xảy ra tranh chấp hay là kết giao với bạn bè xấu, gặp phải loại hung đồ.

Căn cứ theo các sao Tứ Hóa xem là từ một ngôi sao nào hóa ra, thì có thể suy đoán để biết được loại hình bạn bè, rồi căn cứ theo Tứ Hóa có thể biết được mức độ nông sâu của tình cảm. Trước hết, chúng ta nói về các hình thái tình cảm của Tứ Hóa tinh:

Hóa Lộc: Bất kể là sao gì hóa Lộc cũng chủ “Chàng có tình, thiếp có ý”, hình thái đôi bên đều tâm đầu ý hợp, tình cảm song phương rất tự nhiên tiến triển đều đặn, tình ý nồng nàn, cách thức biểu hiện rất chi là lãng mạn.

Hóa Quyền: Thuộc về phương thức của dạng “truy cùng đuổi tận, mặt dày mày dạn, không tiếc bất cứ giá nào để giành được tình cảm”, một phía được theo đuổi sẽ có cảm giác chịu áp lực. Trên thang đo tình yêu, một bên có thể đã bước qua giới hạn bùng cháy, còn bên kia thì sao? Có thể vẫn còn đang dừng ở điểm lạnh nhạt. Thế thì kết quả sẽ ra sao? Tốt thì có thể thu được kết quả mỹ mãn, còn tình huống xấu thì chính là kiểu thô bạo. Cho nên cần phải “Thận trọng khi bắt đầu, từ tốn khi tiến hành”.

Hóa Khoa: Song phương đều rất ôn hòa nhã nhặn, văn vẻ lịch sự giữ khoảng cách an toàn, mưa dầm thấm lâu, chỉ là cả hai đều nhìn nhau không biết chán mà thôi, tình bạn nảy nở trong lý trí, ngộ nhỡ có lúc không hợp thì việc chia tay cũng không đến nối làm cho day dứt đau lòng.

Hóa Kị: Có thể nói là kiểu yêu bừa, mù quáng hoặc là kiểu mê mị mà vơ bèo gạt tép, thường thường là có kết quả bi kịch. Cho nên khuyến cáo các tiểu thư có tình hình như thế này, chớ vì cảm xúc nhất thời trong 1 phút xao lòng mà rơi vào cạm bẫy. Cảm xúc mạnh rất ngọt ngào, nhưng khi phải chia lìa liệu có thể chịu được nỗi đau thấu tim hay chăng. Có điều là Lưu Niên thuận lợi thì vẫn còn có thể bước tới một điểm khác trên tấm thảm đỏ. Hóa Kị không thể xung cung Mệnh hoặc cung Phu Thê (dù là lá số gốc hay theo Lưu Niên thì cũng luận như nhau), một khi xung tức thì có sự biến hóa, ví dụ như là cùng bạn cũ chia tay hoặc là vận kết giao không tốt đẹp, thường xảy ra tranh chấp.

Lại lấy từng tinh tú hóa Lộc để xem hình thái kết bạn của năm nay ra sao:

Cự Môn hóa Lộc: Cự Môn chủ “tài ăn nói, tranh luận, nghiên cứu”, cho nên năm nay bạn bè kết giao năm nay nếu không phải là kiểu dùng “mồm miệng” để kiếm tiền thì cũng là người có tài ăn nói hoặc là người có tinh thần nghiên cứu, khi nói chuyện sẽ thao thao bất tuyệt, rất biết cách tự mình tiếp thị, có cá tính đa nghi, dễ gây thị phi, năng lực học hỏi phong phú.

Phá Quân hóa Lộc: Người có dáng vóc của vận động viên, kiện tướng thể dục thể thao trong trường học, làm việc dũng cảm, quyết đoán, tính háo thắng mạnh, phàm là việc có lý thì sẽ tranh đấu tới cùng bất kể người kia là bề trên hay sếp, cho nên cần phải nhún nhường anh ta một chút.

Thiên Cơ hóa Lộc: Người kiểu này tâm tư tinh tế, tư duy nhạy bén, khi nói chuyện hơi nhanh một chút là khiến người ta có cảm giác nói lắp. Không hợp đảm nhiệm vị trí lãnh đạo, thích hợp làm các công việc phụ tá, sắp đặt kế hoạch, kỹ thuật. Đối với bạn bè rất tốt, gọi một cuộc điện thoại sẽ liền phi tới, là bạn tốt coi trọng tình cảm.

Thái Dương hóa Lộc: Tâm tính ôn hòa, hành vi nhã nhặn, hơi nữ tính hóa. Nếu mà là phái nữ thì chính là sự nữ tính theo tiêu chuẩn truyền thống, đa sầu đa cảm, cảm thụ tinh tế, có chút hướng nội, vốn có tố chất về phương diện nghệ thuật. Nếu là phái nam thì sẽ rất biết cách nắm bắt tâm lý nữ giới, là người biết chăm sóc chiều chuộng bạn gái.

Vũ Khúc hóa Lộc: Vóc dáng không cao, nhưng khỏe mạnh. Giọng sắc cao mà lanh lảnh. Làm việc quả quyết kiên định, một khi đã ra quyết định sẽ không đổi ý. Có năng lực quản lý tiền bạc, lúc bình thường thì tán gẫu cũng hay đề cập tới “Tiền”. Tuy có khiếm khuyết về phong cách yêu đương ôn nhu, nhưng mà hành vi chân thành cũng tạo cho người ta sự tin tưởng khi ở gần.


* Hóa Kị mà xung cung Mệnh hoặc cung Phu Thê thì phải chú ý những chuyện gì?

Văn Xương hóa Kị tới xung: Chú ý đến những tranh chấp về công văn giấy tờ, vay mượn có thị phi, cẩn thận kẻo bút sa gà chết.

Tham Lang hóa Kị tới xung: Chú ý không được chìm đắm vào sắc dục hoặc nhậu nhẹt kẻo không thể quay đầu lại được. Hoặc vì ham chơi mà lãng quên người phối ngẫu nên dẫn đến tranh chấp thị phi.

Thái Âm hóa Kị tới xung: Có hiện tượng chia lìa ngắn với người phối ngẫu, hoặc xung đột với gia đình phối ngẫu, hoặc mẹ của người phối ngẫu có phát sinh tình huống xấu ngoài ý muốn.

Văn Khúc hóa Kị tới xung: Tương tự như tình huống của Văn Xương hóa Kị, nhưng phải chú ý việc tranh chấp tình cảm, hoặc là đã đính hôn rồi nhưng có vài yếu tố nào đó ảnh hưởng mà có khả năng dẫn tới chia tay.

Nói tới việc kết giao bạn bè, xin mời các bạn thiếu nữ vẫn chưa lập gia đình chú ý tới 3 loại tình hình như sau:
1, [cung Tật Ách của Đại Hạn] có Tham Lang hóa Kị, Liêm Trinh hóa Kị tọa thủ tại đối cung tới xung, thì rất dễ có nguyên nhân tiềm ẩn cái việc ăn cơm trước kẻng.
2, Cung Phu Thê hóa Quyền nhập [cung Tật Ách của Lưu Niên] năm ấy của ta. Biểu thị việc chồng chưa cưới hoặc bạn thân dùng thủ đoạn ép buộc để chiếm đoạt tấm thân của ta.
3, Cung Thiên Di hóa Kị nhập cung Tật Ách, mà trong cung lại có Kình Dương tọa thủ, thì dễ bị yêu râu xanh hoặc thiếu niên m*t d*y cưỡng hiếp. Bởi vậy chớ có đi một mình trong đêm, chớ có đơn độc tới điểm hẹn với người lạ. Sinh hoạt đoàn thể thì chớ có tách nhóm, chú ý đến các cử chỉ đoan trang và áo quần tề chỉnh kín đáo, thì có thể giảm thiểu việc phát sinh những sự kiện bất hạnh.

Bây giờ để chúng ta cùng nhìn qua ví dụ B xem xét xem vận kết giao bạn bè năm nay như thế nào?



[cung Nô Bộc của Lưu Niên] ở cung Tân Mùi, thiên can Tân khiến Văn Khúc hóa Khoa tại vị trí cung Thân (tức cung Tài Bạch gốc), cũng chính là [cung Thiên Di của Lưu Niên] năm Mậu Dần. Có ý nghĩa đi ra ngoài sẽ gặp một bằng hữu hào hoa phong nhã, lịch sự, giỏi chiều chuộng người khác, tài ăn nói cũng rất tốt. Nhưng khiến cho người ta có cảm giác không thật lòng, không chịu được khổ, hai bên vẫn duy trì mối quan hệ “quân tử chi giao”. Văn Xương hóa Kị xung tới [cung Phu Thê của Lưu Niên] – mà đây lại là cung Mệnh gốc, thì sẽ chia tay, năm nay sẽ không thể kết phối được người bạn đời tốt (nếu là người đã kết hôn, thì không cần e ngại).

* Vận Lưu Niên sự nghiệp:

Xem về vận sự nghiệp, cần xem xét Hóa Lộc trong Tứ Hóa theo Can [cung Quan Lộc của Đại Hạn], có nhập vào [cung Mệnh của Lưu Niên] hoặc [cung Quan Lộc của Lưu Niên] năm nay hay không (nếu như nhập cung Mệnh gốc cũng luận giống nhau). Nếu có nhập thì biểu thị là năm nay thu được thành quả thịnh vượng trong sự nghiệp, đi làm có dấu hiệu tăng lương, lại thêm Hóa Quyền nữa thì nhất định năm nay công việc sẽ thuận lợi trôi chảy, thu nhập cá nhân và quyền lực cũng đều tăng.

Nói về Hóa Lộc, ý nghĩa là biểu lộ sự nghiệp chỉ là được rạng rỡ mà thôi, còn kết cấu bên trong mà không được vững vàng thì đi làm chỉ có tăng chút lương hoặc là được điều động thăng tiến lên 1 vị trí có tiếng mà không có miếng.

Có Hóa Quyền nhập mà nói, thế thì năm nay có vất vả chút ít, vì Hóa Quyền là biểu thị việc ý nghĩa nắm quyền hành thành tựu, nhưng không có Hóa Lộc tới phối hợp thì hiệu quả của nó không hiển lộ, chẳng qua chỉ là gia tăng gánh nặng công tác, bận rộn. Chờ đợi thời cơ chuyển biến tốt thì có cơ hội cầm quyền.

Hóa Khoa có ý nghĩa chậm rãi khoan thai, gặp dữ hóa lành, công danh khoa giáp. Hóa Khoa nhập Mệnh cung hoặc Quan Lộc, bất kể là chủ doanh nghiệp hay đi làm công ăn lương thì về công việc cũng duy trì ổn định phát triển, lúc nguy ngập thì bất ngờ có trợ lực vượt qua cửa ải khó khăn. Học sinh hoặc những bạn có ý định tham gia thi cử, chỉ cần chuẩn bị tốt, trong trường thi hoàn toàn có khả năng phát huy đạt kết quả cao. Những người sinh năm Ất, Canh, Hóa Khoa nhập cung Mệnh, Quan Lộc là có khả năng rất cao trong các chuyện thi cử.

Hóa Kị nhập Mệnh thì bày tỏ sự toàn tâm toàn ý ở trên sự nghiệp. Hiếm có thời gian thư giãn giải trí, hoặc năm nay phải lưu tâm đến sự nghiệp, không thể chểnh mảng như trước. Nhưng mà Hóa Kị xung Mệnh hoặc Quan Lộc thì đều không phải là điềm tốt, nếu có thì sẽ xảy ra một loạt sự kiện mà có thể liệt kê như sau:

1, Thất nghiệp (phối hợp cung Tài Bạch mà đoán), cắt giảm nhân sự.
2, Có cảm giác chán đối với công việc hiện tại, muốn chuyển công tác.
3, Khó hòa đồng đối với sếp, đồng nghiệp, cảm sự bế tắc trong công việc gia tăng.
4, Đảm nhiệm chức vụ ở cái công ty kinh doanh không hiệu quả hoặc sập tiệm.
5, Đổi nghề.

Nếu lúc ấy lại có Hóa Khoa nhập Mệnh, Quan Lộc thì có thể phát sinh uy lực gặp giữ hóa lành, tuy đối cung Hóa Kị xung tới cũng có thể vượt qua nguy cơ hoặc (trì hoãn, do dự không quyết) mà vượt qua khỏi.



Lại xem xét vận sự nghiệp của ví dụ C như thế nào?
[cung Quan Lộc của Đại Hạn] có can Đinh khiến Cự Môn hóa Kị xung cung Quan Lộc gốc, cho nên trong 10 năm này sự nghiệp ắt không thuận lợi. Khi Lưu Niên đi tới cung Dần thì chỗ mà [cung Quan Lộc của Đại Hạn] hóa xuất Kị đến liền trở thành chỗ [cung Quan Lộc của Lưu Niên] làm cho năm này sự nghiệp so với những năm trước càng không thuận lợi, bởi vì Cự Môn hóa Kị tới xung. Cho nên có thể biết là chuyện thị phi trùng trùng, cãi cọ tranh chấp, bị người ta vu tin vịt báo hại... đủ thứ chuyện. Năm đó nhất định nhất định là rắc rối nhiều vô kể.

* Vận Lưu Niên tài bạch:

Tức tình hình thu chi về tài chính. Trong đó, sự thu nhập có thể chia thành:
1, Thu nhập từ việc tự buôn bán.
2, Thu nhập ổn định từ lương bổng.
3, Thu nhập thêm từ những nghề tay trái.

Còn nguyên nhân của chi ra hoặc hao tổn thì đại khái chia thành:
1, Chi phí sinh hoạt thường ngày
2, Đầu tư
3, Vay mượn ngoài ngân hàng
4, Tiết kiệm

Quy tắc suy đoán vận tài bạch của Tử Vi Đẩu Số, đối với tình hình thu chi ổn định thì tương đối khó nắm bắt, còn đối với những tình huống lời lãi có tính chất đầu tư thì có thể nắm bắt được. Nếu như mệnh cách phù hợp (cách Tham Hỏa) lại gặp vận hạn thịnh vượng thì đương nhiên có thể từ việc đầu cơ để mà làm giàu.

Chúng ta suy đoán vận Tài Bạch, thì nhất định phải tham khảo thêm nguồn tiền sinh ra và nơi tiền đi tới, mới có thể biết rõ trạng thái biến động của tiền tài. Tử Vi Đẩu Số có thể dùng cung Nô Bộc đại biểu cho sự qua lại giữa ta với khách hàng, cho nên sự thay đổi của tiền tài và bạn bè có mối quan hệ rất mật thiết không thể tách rời. Cho nên, khi nghiên cứu trạng thái thay đổi của tiền tài thì cần phải đem tính chất các sao và cung can Tứ Hóa của cặp cung vị ấy để mà cùng đưa vào sự cân nhắc.

Hóa Lộc từ [cung Tài Bạch của Đại Hạn] tuy có nhập cung Mệnh, nhưng Hóa Kị của cung Nô Bộc lại nhập cung Mệnh hoặc cung Tài Bạch, thì giống như là bằng hữu thò tay với tới hầu bao của mình, lấy tiền tài của ta sử dụng vậy, không có cách nào tích tụ tài sản, hoặc sẽ vì bằng hữu mà thiệt hại tài sản.

Nếu như cung Nô Bộc hóa Lộc nhập cung Mệnh hoặc cung Tài Bạch, nhưng các cung vị ấy lại tự hóa Kị, thì nghĩa là bạn bè rất ủng hộ cho sản ta, chiếu cố tới sản phẩm của ta hoặc đem tiền cho ta mượn, mà bản thân mình vì vài lý do nào đó mà không có cách nào để tận dụng tài nguyên cho nên đưa đến thất bại.

Trước tiên, bắt đầu nói từ Tứ Hóa của cung Tài Bạch:

Hóa Lộc: nhập cung Mệnh thì đại biểu có tiền thu vào, nhập cung Quan Lộc thì đại biểu lấy tiền đầu tư cho sự nghiệp. Theo cái sao nào hóa để biết nguồn của thu nhập.

Thái Dương hóa Lộc: nếu là người tự kinh doanh, việc buôn bán của năm nay so với năm ngoái có cạnh tranh kịch liệt thì mới có thể bộc lộ tài năng trong trong quần hùng, trở thành có vai vế trong giới. Ngành nghề chủ yếu là điện khí, máy móc, năng lượng, nhiên liệu sẽ rất tốt đẹp. Đối với người đi làm công ăn lương, có cơ hội đi công tác hoặc làm thêm hoặc dùng tài ăn nói để mà kiếm thêm thu nhập, có cơ hội xuất ngoại.

Liêm Trinh hóa Lộc: nếu là người tự kinh doanh trong giới nghệ thuật như thiết kế nội thất, trang điểm, làm tóc, thiết kế thời trang, chụp hình, truyền thông, quảng cáo đều rất tốt, có thể tính toán để mở rộng nghiệp vụ. Nếu mà đi làm thuê? Sẽ có cơ hội tăng lương nhưng mà trách nhiệm sẽ nặng nề hơn.

Thiên Đồng hóa Lộc: đối với những bạn làm nghề dịch vụ, năm nay sẽ gặp hoàn cảnh cạnh tranh tốt hơn để mở ra một tiền đồ to lớn. Hoặc là gia tăng thành tích đối với cơ quan làm việc, giảm thiểu rủi ro kinh doanh. Nếu là nhân viên thì năm nay cũng có lợi về cả quyền và tiền, chẳng những thu nhập gia tăng mà chức vụ cũng thăng tiến, có thực quyền, nếu sát tinh đồng cung thì sẽ vì lười biếng, cẩu thả mà mất đi nhiều cơ hội.

Tham Lang hóa Lộc: Tham Lang chủ về “tửu, sắc, tài, khí”, nói 1 cách văn vẻ là nhắm vào ngành nghề giải trí và ẩm thực. Cho nên Tham Lang nhập Mệnh, thì sẽ theo hai nghề nghiệp như trên, năm nay rất thuận lợi. Nhưng mà tiền tài của Tham Lang có ý nghĩa bàng môn tà đạo, cho nên có thể vì thế mà thiệt hại tiền bạc hoặc vì đó mà khiến tay chân bị thương hoặc tiền bạc bị anh em bạn bè mượn đi. Nhân viên công vụ thì đừng nên tham tiền phong bì, kẻo mà bại lộ thì lại gửi thân vô tù. Bởi vì Tham Lang chủ về tài nguyên bất chính, nếu có “phá” tượng, thì những nhân viên công vụ là phải đặc biệt kiêng dè. Nếu bạn là nhân viên của xí nghiệp tư nhân thì có thể người quản lý sẽ đưa bạn tiền làm thêm giờ, so với năm trước là nhiều hơn. Nếu tận dụng nhặt nhạnh thì cũng là khoản thu nhập tương đối. Người có mệnh cách này, năm nay hoặc có thu nhập hoặc công tác có chuyển biến, như đổi công tác hoặc được điều động trong nội bộ.

Thiên Lương hóa Lộc: “Ngựa không ăn cỏ dại thì không mập, người không kiếm tiền bất chính thì không giàu”, Thiên Lương hóa Lộc có thể khiến bạn có một khoản thu nhập bất ngờ như: trúng vé xổ số, nhặt được tiền, bốc thăm trúng thưởng,… đều là các khoản tiền tài sản bất ngờ, đối với người làm ăn thì có thể là tiền tài từ đầu cơ, lại có thể nói là tiền tài từ người già cấp cho, cùng chung sự nghiệp với người già thì có thể kiếm được tiền.

Hóa Lộc thì cần phải có Hóa Quyền tới hội hợp thì mới từ Hư chuyển thành Thực, vì vậy nếu Hóa Lộc nhập vào vị trí của các cung Mệnh, Tài Bạch, Sự Nghiệp lại phối hợp Hóa Quyền thì có thể nắm lấy cơ hội vững vàng.

Hóa Kị không được xung các cung Mệnh, Quan Lộc, Tài Bạch, mặc dù có Hóa Lộc thủ ở các cung ấy nhưng một khi bị Hóa Kị xung kích tới thì cát lực của Hóa Lộc sẽ biến mất, ngược lại còn thành điềm báo trước cho một hao tổn to lớn.

Lại nói về Tứ Hóa can cung Nô Bộc, nếu Hóa Lộc nhập Tài Bạch của ta, thì đã nói ở phía trên. Giờ nói đến Hóa Kị của cung Nô Bộc, nếu khi nó tạo thành tình thế “Xung” tới các cung Tài Bạch, Sự Nghiệp, Mệnh của ta, ắt phải đề phòng bạn bè tới “Cướp” tiền của ta, cái chữ “cướp” này có ý nghĩa là:

1, Vay tiền để đưa cho bạn, cũng giống như đánh chó bằng cách ném cái bánh bao nhân thịt, có đi mà không có về.
2, Tham gia vào mấy cái hội trợ giúp cộng đồng (kiểu chơi hụi), kết quả sẽ bị lừa một vố đau.
3, Buôn đi bán lại, nhưng lại nhận phải tấm ngân phiếu khống.
4, Tiền tài bị cướp đoạt hoặc bị trộm mất.

Trong đó thì tình huống thứ 4, bị trộm là vì Cự Môn và Tả Hữu đồng cung, còn đối cung thì có Hóa Kị xung tới hoặc tự bản cung hóa Kị, đặc biệt là Cự Môn hóa Kị sẽ rất là linh nghiệm. Còn bị cướp thì sao? Thì phải chú ý tới các hung sát tinh như Kình Dương, Thất Sát có theo Hóa Kị xung Tài Bạch hay không, hoặc (hung sát) ở cung Tài Bạch mà đối cung Hóa Kị đến xung, hoặc ở bản cung tự hóa Kị, cũng đều dễ có tình trạng bị cướp. Kình Dương tựa như là một phần tử bất lương, nằm rình ở bên trong kho tiền của bạn, một khi có cơ hội (khi Hóa Kị đến xung hoặc khi tự hóa Kị) sẽ liền phát sinh lực tác động phá hoại.


Bây giờ xem Vận tiền tài năm nay của ví dụ D:



Tứ Hóa theo Can [cung Tài Bạch của Đại Hạn] đều nhập cả vào trong các cung [Thiên Di của Lưu Niên], [Phúc Đức của Lưu Niên], [Tài Bạch của Lưu Niên], cho nên vận làm giàu của năm này rất tốt. Hơn nữa [cung Tài Bạch của Lưu Niên] năm nay ở cung Giáp Tuất khiến Thái Dương hóa Kị nhập vào [cung Quan Lộc của Lưu Niên] ở vị trí cung Canh Ngọ, cho nên năm nay sẽ có hiện tượng bỏ tiền đầu tư sự nghiệp (hình 1 ví dụ D).

Lại xem tới Hóa Kị trong Tứ Hóa theo thiên can [cung Nô Bộc của Đại Hạn], can Bính khiến Liêm Trinh hóa Kị xung ngược tới [cung Mệnh của Đại Hạn] cũng chính là cung Tài Bạch gốc. Cho nên năm nay phải cẩn thận bạn bè làm thiệt hại tiền tài của ta, đặc biệt là năm Mậu Dần. Xin mời xem đồ hình chi tiết về Tứ Hóa theo thiên can [cung Nô Bộ của Đại Hạn] (hình 2 ví dụ D).



* Vận kết hôn năm nay như thế nào?

Đối với những bạn đang muốn kết hôn, xin mời xem quy trình 2 bước dưới đây, xem xem vận năm nay kết hôn có được hay không?

1, Trước tiên đem [cung Phu Thê của Đại Hạn] và [cung Phu Thê của Lưu Niên] khoanh tròn lại. Sau đó xem xét tính chất các sao tọa thủ bên trong là loại nào, nếu như đụng phải các sao cô quả là Vũ Khúc, Thất Sát, Sát Tinh độc tọa, hoặc tam phương của cung Mệnh gặp đủ 3 loại sao kể trên. Như vậy thì năm nay muốn kết hôn, xem ra không tốt hoặc có thể nói tình duyên không sâu khó kết thành đôi, hoặc đối tượng gặp phải là phần tử bang phái (không có nghĩa là hôn nhân nhất định không tốt, mà sẽ phá hỏng khả năng chung sống tới lúc đầu bạc). Cái được gọi là “phá”, không nhất định là ám chỉ về việc ly hôn, mà thí dụ như việc không thường được ở bên nhau cũng gọi là phá.

2, Nếu không gặp tình trạng như đã kể trên, thì xem sao Hóa Kị theo thiên can [cung Phu Thê của Đại Hạn] có xung vào [cung Phu Thê của Lưu Niên] hay không. Nếu như có xung thì cũng vô vọng và phải nên chờ tới năm sau. Nếu như [cung Phu Thê của Lưu Niên] có thiên can khiến cho tam cát hóa tinh (Lộc Quyền Khoa) nhập vào các cung Mệnh, Phu Thê, Phúc Đức, Quan Lộc, Tài Bạch thì đều có hiện tượng cưới hỏi, hy vọng nắm lấy cho tốt.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Am Ngọa Vân - Nơi Trần Nhân Tông hóa Phật

Quan Lớn Đệ Nhị

Đền Bồng Lai Hòa Bình